Trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết, Kundera có nhắc tới truyện Bay trên tổ chim cúc cu của Kent Kesey. Khi nhân vật chính trong truyện tìm ra cách giải phóng cho những bệnh nhân tâm thần của trại điên, bị hành hạ và khủng bố bởi mụ y tá trưởng trại thì ban đầu những người này tỏ ra vui sướng nhưng rất nhanh sau đó lại sợ sệt và không dám đi ra ngoài. Họ sợ hãi trước thế giới bên ngoài mà họ không biết và không hiểu. Và họ chọn cách ở lại với sự an toàn và nỗi sợ hãi và ty tiện đưọc biết trước hơn là tự do và những trắc trở của nó. Kundera so sánh những bệnh nhân này với người dân của nước Nga, những người dường như lựa chọn chấp nhận chế độ toàn trị và cảnh sát "của mình" - một chế độ mà chính người Nga tự mỉa mai là "they pretend to pay us and we pretend to work"- hơn là tự do. Tất nhiên, lỗi không hoàn toàn là ở họ, nhiều kẻ trước khi vào trại điên vẫn hoàn toàn bình thường, còn người “tỉnh táo” và mạnh mẽ nhất trong trại điên của Kesey phải nhận lấy một kết cục bi thảm, bị biến thành một cái xác chết vật vờ sống thực vật.
Trong phim The Shawshank Redemption cũng có chuyện kể những người tù được ra khỏi tù đều sợ hãi vì thế giới bên ngoài xa lạ và nằng nặc xin ở lại trong tù. Một người trong số đó cuối cùng đã phải tự treo cổ sau khi được tự do.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi những người cộng sản tỏ ra rất thích câu nói của Marx (?) "Tự do là nhận thức được sự tất yếu", diễn đạt nôm na là biết được vùng vẫy đến đâu trong sợi dây trói "tất yếu". Tất nhiên, kẻ nào vùng vẫy mạnh quá, hoặc quá ngây thơ không nhận ra dây trói hoặc ngược lại, gọi đích danh nó là sợi dây trói thì chẳng sớm thì muộn, sẽ không còn cơ hội được hưởng "tự do" rồi!. (nói theo kiểu chính trị viên, anh không xứng đáng được hưởng tự do vì anh không biết quý trọng tự do mà anh có được nhờ công ơn của abc)
Sự giả dối, suy cho cùng vừa là hệ quả vừa là bạn song hành của sự hèn nhát và nỗi mặc cảm mà thôi. Nó sinh ra từ hèn nhát và mặc cảm và tồn tại để che giấu cho chúng. Hay sử dụng một định nghĩa từ của Kundera, thì nó là một sản phẩm kitsch tồi tệ nhất mà đến lượt mình, sẽ đẻ ra vô số những cái kitsch khác, những thứ giả nghệ thuật, giả cảm xúc, giả nhân văn, phục vụ thói quen ăn sáng.
Một chủ đề khác mà Kundera đề cập tới là tội lỗi tưởng tượng. Một buổi sáng đẹp trời hay xấu trời nào đó, nhân vật Joseph K của Kafka tỉnh dậy và bị kết tội. Và anh ta cứ hoài hơi đi tìm tội lỗi của mình như để xác nhận sự thống nhất và hợp lý của thế giới mà anh ta đang sống. Việc phủ nhận tội đó dường như là một cái gì đó vượt ra khỏi khả năng nhận thức của anh ta, vì nó đe doạ tính hợp lý của thế giới mà anh ta đang sống và coi mình là một thành phần. Nói như Kundera là "kẻ bị kết tội đồng cảm và đồng loã với tên đao phủ". Tuy ẩn ý của Kafka phức tạp và có thể có nhiều diễn giải trong các môi trường khác nhau nhưng dường như có nhiều sự tương đồng hơn giữa Joseph K với thân phận của những người sống trong các xã hội toàn trị nơi cá nhân không tồn tại, con người chỉ là một cái mắt xích trong một bộ máy khổng lồ và người ta ít xa lạ với những thứ khá quái gở như "tự phê bình" "kiểm điểm"...
Nếu như Kafka nói tới tội lỗi mặc định thì Orwell nhắc tới sự lãng quên trong một xã hội phi cá nhân, nơi những ký ức bị nhào lặn và xuyên tạc. Lịch sử trở thành một công cụ của chính trị. Và khi người ta đánh mất lịch sử, khi ký ức không còn tồn tại nữa thì tất cả các cá nhân sẽ giống hệt nhau, tất cả các nền văn minh sẽ đều cùng một khuôn và mọi lời nói dối sẽ trở thành chân lý, hay nói chính xác hơn là người ta sẽ không còn hoài công tìm cách phân biệt lời nói dối với sự thật làm gì nữa. Hay hiểu như Descarte thì con người hiện đại sẽ chết đi vì lúc đó không còn có chuyện "tôi suy nghĩ là tôi tồn tại" nữa. Chính vì thế sự phản kháng của Winston trong 1984 không phải là cố gắng căm ghét Big Brother hay bằng những hành động bất tuân lệnh và truỵ lạc nho nhỏ như người tình Julia của anh. Winston tìm đến quá khứ, coi đó là điểm níu duy nhất để giữ lấy nhân cách "con người".
K. của Kafka vẫn còn là một con người cá thể với những mục đích và ý nghĩ của riêng mình (tuy rằng luôn phải làm tình với vợ trước sự chứng kiến của hai gã giúp việc) nhưng tới Orwell, con người cá nhân và sự riêng tư đã bị hoàn toàn triệt tiêu. Các nhân vật của Orwell cũng luôn cảm thấy có tội nhưng không chỉ có vậy, họ còn bị tước đoạt đi cảm xúc thật và suy nghĩ của riêng mình bằng những bài luyện tập kiểu 10 phút Căm ghét mỗi ngày. Họ bị bắt buộc phải có cách nghĩ nước đôi (doublethink) để tồn tại (Một ví dụ về cách nghĩ nước đôi mà người ta dễ mắc phải, một mặt tôi thấy việc đưa và nhận hối lộ là xấu, một mặt tôi thấy nó là hợp lý và tôi vẫn làm việc đó mà không một chút hổ thẹn và không thấy là nó xấu vì "tất cả đều làm thế").
Điều đáng sợ của một xã hội như vậy là gì? Là việc tất cả đều "pretend": Chúng tôi pretend làm việc và họ pretend trả lương. Đảng pretend là đại diện cho giai cấp vô sản và chúng tôi pretend là chúng tôi tin điều đó.Giống như một vở hài kịch. Nhưng trong một vở hài kịch thì người ta sẽ cười. Trong vở hài kịch-cuộc sống này thì người ta không được phép cười và sự giả tảng đó cũng được coi (một cách giả tảng, tất nhiên) như điều thiêng liêng. Người ta vẫn có thể dung thứ cho sự tồn tại của anh nếu anh căm ghét hay hờn dỗi họ (thậm chí anh còn có thể trở thành celebrity trong một chừng mực nào đó) nhưng họ sẽ không để cho anh cười cợt vào mũi họ, nói với họ là họ đang "diễn". Nói cách khác, anh sẽ bị bắt buộc phải đóng vai diễn viên và cùng diễn với họ chứ không được phép làm khán giả.
Cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm văn học "cười cợt" ở nước Nga chỉ dừng
lại ở Bulgakov từ những năm 30. Và ở Việt Nam thì nền văn học "cười cợt" ấy cũng chấm dứt ở Vũ Trọng Phụng. Những nhà trào phúng không có chỗ trong một xã hội tập thể. Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ đều phải khoác một bộ mặt nghiêm túc nhất khi đi theo cách mạng. Và người Việt Nam đành phải cười cùng một nhà văn sống ở một nước tư sản là Azit Nexil. Ngay cả trong 20 năm gần đây, trong khi có rất nhiều chua cay, hờn giận, buồn tủi, đau thương thì cũng không có người viết nào biết cười cợt cả, có lẽ chỉ có Nguyễn Việt Hà là tiến gần nhất tới một nụ cười. Thế mà sao cụ Nguyễn Văn Vĩnh từng bảo dân mình cái gì cũng cười được. Nhưng mà cũng đúng, vì cái gì cũng cười được nên không hiểu được ý nghĩa và sức mạnh của nụ cười và sự hài hước, nhất là hài hước đen- cái mà người Việt luôn thiếu..
Trong chương The Grand Inquisitor ở cuốn Anh em nhà Kazamazov của Dostoievski, viên Grand Inquisitor biện minh cho hành vi thiêu sống những kẻ dị giáo và sẵn sàng đóng đinh cả chính Chúa Jesus là vì hạnh phúc của đám dân đen -những kẻ ngu dốt, luôn sợ hãi tự do và việc phải lựa chọn. Theo y, nếu đặt đám dân này phải lựa chọn giữa hạnh phúc trong ngu dốt và tự do thì bọn chúng luôn chọn hạnh phúc và hy sinh tự do, chỉ cần có bánh mỳ chứ không cần tri thức. Trong khi những kẻ như y phải gánh chịu trách nhiệm lựa chọn cho dân chúng cùng những đau khổ và hệ luỵ của công việc này.
Lời biện minh ấy có giả dối không? Không hoàn toàn là giả dối vì hình như y thực sự tin tưởng vào điếu đó. Nhưng lý giải theo Orwell thì đó là doublethink. Y tin thế vì y muốn tin thế (một cách vừa có ý thức vừa không có ý thức). Hay theo Kundera thì đó là một cái kitsch, là những mỹ từ được đặt ra để tự lừa dối mình và lừa dối người khác. Những cái kitsch ấy tồn tại như những nếp gấp trong vỏ não mà người ta thường trượt vào để có thể cảm thấy yên tâm chứ không phải xuất phát từ sự lựa chọn có ý thức. Orwell có câu trả lời khác qua lời một nhân vật của mình "chúng tôi muốn quyền lực chỉ vì quyền lực". Không vì hạnh phúc của dân chúng. Không vì sự thoả mãn của bản thân. Nghe tưởng nghịch lý nhưng chẳng phải Nietzsche từng coi ý chí quyền lực là động cơ của loài người đó sao. Những người cộng sản ghét Nietzsche cũng vì điều đó. Không phải vì tư tưởng của Nietzsche đã phần nào góp phần cho sự ra đời của chủ nghĩa Quốc xã. Mà vì cũng như Dostoievski, Nietzsche đã bóc trần sự hào nhoáng của những mỹ từ mà họ đang "pretend" và chẳng có vị Hoàng đế nào lại thích thú khi một đứa trẻ kêu lên là "Hoàng đế cởi truồng". Nhưng để có thể kêu lên như thế thì lại phải là trẻ con! Mà những đứa trẻ thực sự trong một xã hội giả dối, nơi những cái kitsch trở thành chuẩn mực, thì lại không có nhiều.
No comments:
Post a Comment