Nguyễn Bá Trác
Tác giả Nguyễn Bá Trác từng hưởng ứng phong trào Đông du của cụ Phan Bội Châu, tham gia Việt Nam Quang phục hội. Sau phong trào bị khủng bố, ông bỏ về Hà Nội, cộng tác với Phạm Quỳnh cho báo Nam Phong. Một số tài liệu nói ông hợp tác với Pháp, tố cáo các đồng chí cũ, như nhận diện Lương Ngọc Quyến cho Pháp bắt. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông bị bắt và chết trong tù.
Bài thơ này hình như là bài duy nhất còn lại của Nguyễn Bá Trác, làm khi ông đã hồi đầu ở Hà Nội và để tặng cho Hoàng thân Cường Để, minh chủ Việt Nam Quang phục hội. Bài thơ chứa chất tâm sự của kẻ từng có hùng chí nhưng giờ đành nuốt cuộc đời trong bình rượu, không có được cái hùng tâm mà khoáng đạt, ung dung của Trương Tiến Tửu (Lý Bạch), lại càng không có được cái vẻ ngạo nghễ mà đau xót trong Thuật hoài (Đặng Dung) nhưng cũng là một bài thơ hay nhưng ít được biết đến.
Hồ Trường
Đại trượng phu,
Không ưa hề xẻ gan, bẻ cật.
Phủ cương thường,
Hà tất tiêu dao.
Công chưa thành,
Danh chẳng đạt.
Tuổi trẻ bao năm mà đầu bạc,
Trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hét,
Nghiêng bầu mà hỏi:
Trời đất mang mang,
Ai người tri kỷ ?
Lại đây cùng ta,
Cạn một hồ trường!
Hồ trường, hồ trường,
Ta biết rót về đâu ?
Rót về Bắc phương,
Ngọn Bắc phong vi vút,
Cát chảy đá tuôn!
Rót về Nam phương,
Miền Nam nghìn dặm thẳm...
Non nước, một màu sương!
Rót về Đông phương,
Nước biển Đông chảy xiết,
Sinh cuồng loạn!
Rót về Tây phương,
Mưa Tây sơn từng trận,
Chứa chan!
Có người quá chén,
Như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh ?
Nào ai say ?
Chí ta, ta biết.
Lòng ta, ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ư Hồ thỉ,
Hà tất cuồng sầu đối cỏ cây.
No comments:
Post a Comment