Friday, September 28, 2007

Entry for September 28, 2007



img

Nhà báo Nhật Bản Kenji Nagai, phóng viên hãng APF đã hy sinh trước mũi súng quân chính phủ Myanmar khi nhà cầm quyền nước này đàn áp phong trào biểu tình đòi dân chủ của sư sãi, Phật tử, sinh viên và nhân dân. Có ít nhất 9 người chết trong ngày thứ Năm. Trong hôm thứ Tư cũng có ít nhất 4 người chết, trong đó có ba nhà sư.

img




Có thể xem đoạn phim quay cảnh Kenji Nagai bị giết- một hành động man rợ của nhà cầm quyền Myanmar-ở đây. Xem cảnh có thể thấy việc bắn chết Nagan là một hành động cố ý và không thể biện minh.
Tin trên AFP.
Tin trên BBC.
img

Entry for September 28, 2007

You can’t always get what you want
Rolling Stones

I saw her today at the reception
A glass of wine in her hand
I knew she was gonna meet her connection
At her feet was her footloose man

You can't always get what you want
You can't always get what you want
You can't always get what you want
But if you try sometimes you might find
You get what you need
Oh yeah, hey hey hey, oh...

And I went down to the demonstration
To get my fair share of abuse
Singing, "We're gonna vent our frustration
If we don't we're gonna blow a 50-amp fuse"
Sing it to me now...

You can't always get what you want
You can't always get what you want
You can't always get what you want
But if you try sometimes well you just might find
You get what you need
Oh baby, yeah, yeah!

I went down to the Chelsea drugstore
To get your prescription filled
I was standing in line with Mr. Jimmy
And man, did he look pretty ill
We decided that we would have a soda
My favorite flavor, cherry red
I sung my song to Mr. Jimmy
Yeah, and he said one word to me, and that was "dead"
I said to him

You can't always get what you want, no!
You can't always get what you want (tell ya baby)
You can't always get what you want (no)
But if you try sometimes you just might find
You get what you need
Oh yes! Woo!
You get what you need--yeah, oh baby!
Oh yeah!
I saw her today at the reception
In her glass was a bleeding man
She was practiced at the art of deception
Well I could tell by her blood-stained hands

You can't always get what you want
You can't always get what you want
You can't always get what you want
But if you try sometimes you just might find
You just might find
You get what you need
You can't always get what you want (no, no baby)
You can't always get what you want
You can't always get what you want
But if you try sometimes you just might find
You just might find
You get what you need, ah yes...

yfla.wrap("This multimedia content requires Flash version 9 and above.", "Upgrade Now.", "http:\/\/www.adobe.com\/shockwave\/download\/download.cgi?P1_Prod_Version=ShockwaveFlash", "
Get this widget | Track details | \t\teSnips Social DNA ");To view this multimedia content, please enable Javascript.

Entry for September 28, 2007

Hiện nay có thể thấy rất nhiều báo đang đứng ra kêu gọi mọi người ủng hộ vật chất cho những người không may thiệt mạng hay bị thương trong vụ sập cầu Cần Thơ. Không chỉ báo mà còn có phong trào quyên góp trên blog của nhiều người. Thậm chí có blog còn kêu gọi mọi người vào comment ở blog của mình, mỗi comment sẽ được quy ra 2000 đồng mà nhóm chủ nhân blog sẽ đứng ra góp để ủng hộ những người bị tai nạn (hiếm khi spam có cả giá lẫn giá trị như thế). Tấm lòng của những người đóng góp quả là rất quý, và cả việc quyên góp tiền của các báo cũng thể hiện mong muốn được chia sẻ và giúp đỡ của các tờ báo đó.

Nhưng qua việc này tôi lại thấy như có sự đánh đồng trong tư duy chúng ta: chúng ta coi mọi tai nạn như nhau dù đó là thiên tai hay tai nạn lao động. Trong blog của chị 2 4 6 có viết “Người ta chỉ kêu gọi đến đóng góp tiền bạc của công chúng trong các trường hợp thiên tai, hoặc khi mức thiệt hại vật chất quá cao khiến người gây ra nó không gánh vác nổi. Một công trình 5000 tỉ không thể không có bảo hiểm. Nếu không có bảo hiểm, thì các chủ thầu cũng đủ khả năng đền bù xứng đáng theo luật quốc tế. Và chắc chắn họ phải làm điều này. Kêu gọi đóng góp tiền bạc từ công chúng tức là công nhận cầu sập do thiên tai, không có người chịu trách nhiệm cho việc đã xảy ra….”

Tôi cũng nghĩ như vậy, việc báo chí kêu gọi quyên góp lúc này là hơi vội vã, cảm tính và đánh vào tình cảm của người đọc. Các tờ báo ấy thừa sức có thể bỏ ra một số tiền ban đầu để hỗ trợ ngay lập tức những người có hoàn cảnh khó khăn cần cứu trợ ngay. Còn sau đó những công ty bảo hiểm sẽ phải đứng ra chịu trách nhiệm đền bù cho những người bị tai nạn. Việc các tờ báo đồng loạt quyên góp như thế này tạo ra ấn tượng như một cuộc cạnh tranh. Như tôi để ý sau các chiến dịch quyên góp là các tờ báo cạnh tranh nhau luôn công bố một cách hồ hởi là họ đã quyên được bao nhiêu tiền, càng vượt nhiều hơn đối thủ cạnh tranh thì càng phấn khởi- bản thân việc này cũng không có gì nhưng nó gợi ra liên tưởng tới một cuộc chạy đua quyên góp từ thiện và cứ thế nó cuốn theo tất cả các tờ báo lớn. Ở đây việc này khác với các trường hợp như thiên tai cần cứu trợ khẩn cấp và với những thiệt hại lớn không chỉ về người mà còn về của- những trường hợp này rõ ràng cần tới sự quyên góp trực tiếp của người dân. Việc này cũng khác với các quỹ từ thiện có tính thường xuyên, dùng để trợ giúp những người có hoàn cảnh khó khăn hay bị dị tật…Tại sao khi xảy ra các vụ tai nạn ô tô, tai nạn tàu hỏa hay cháy chợ thì các báo không vội vã quyên góp tiền từ công chúng như lần này? Vì ít người chết hơn? Hay vì công chúng không tỏ ra xúc động nhiều như lần này?

Công việc chính của báo chí trong việc này là đưa tin trung thực, khách quan, chính xác, làm rõ trắng đen, các uẩn khúc, trách nhiệm của những người liên quan chứ không phải là các nhà tổ chức từ thiện.

Viết thế này có khi sẽ bị gọi là vô cảm. Thôi đành chịu vậy.

Thursday, September 27, 2007

Entry for September 27, 2007

  1. Cùng ngày với tin cầu Cần Thơ sập là tin Chính phủ đồng ý để Việt Nam đứng ra tổ chức Miss Universe.
  2. Trên báo Tuổi trẻ có một bài phóng sự hay về làng nón (mũ theo tiếng Bắc) trong Sài Gòn suy sụp sau khi có quyết định người đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm. Vậy là chỉ một quyết định thôi cũng đủ khiến cho một làng nghề có hơn 30 năm kinh nghiệm phải lao đao, đóng cửa.
  3. Vấn đề giao thông đô thị ở Việt Nam ngày càng nhức nhối. Các nhà quản lý đã phải tính tới các biện pháp rất cực đoan như thế này: “Từ 1.1.2008, không cấp phép đầu tư, xây dựng mới, thêm các trường học các cấp, không phân biệt dân lập hay tư thục, các trung tâm ngoại ngữ, trường quốc tế, trung tâm thương mại, chợ, siêu thị, cao ốc văn phòng trên địa bàn các quận: 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, Tân Bình, Tân Phú, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Gò Vấp.”

Những biện pháp nặng tính hành chính như thế có phạm phải luật kinh doanh và ngăn trở quyền tự do kinh doanh của công dân không?

(Hai link trên lấy từ blog của bác duc_sniper).

4. Việt Nam nhiều khả năng sẽ thành thành viên HĐBA- cũng là một điều đáng mừng. Ở nước láng giềng Miến Điện thì đang xảy ra một vụ 1963 mới, khi các nhà sư xuống đường ủng hộ dân chủ và phản đối chính quyền độc tài quân sự.

Wednesday, September 26, 2007

Entry for September 26, 2007

Sáng mở web đọc tin về vụ sập cầu Cần Thơ, thấy buồn thế.

Ở nước mình năm nào cũng xảy ra thiên tai, mỗi năm, thường cũng vào mùa này, đọc báo là lại thấy tin nơi này xảy ra bão, nơi kia lũ lụt, hàng trăm người chết, hàng ngàn ngôi nhà bị phá hỏng. Những thiên tai lũ lụt đó mảnh đất nghèo có tấm thân mỏng mảnh vắt mình ra biển Đông cứ hàng năm lại phải gánh, một cách cam chịu và chấp nhận. Đến bản thân mình, mỗi lần đọc cũng chỉ biết chặc lưỡi, buồn và hơi xót xa, nhưng cũng chẳng làm gì nhiều hơn thế.

Năm nay có vẻ thời tiết thuận lợi nên chưa thấy sự tàn phá dữ dội của các cơn bão. Nhưng lần này lại là một thảm họa khác, và buồn thay, thảm họa này là do con người. Trên các tờ báo, người ta gọi đó là một tai nạn. Đúng là tai nạn, nhưng với con số tới nay là 52 người chết và gần 200 người bị thương, thì cũng có thể gọi đó là một thảm họa. Thảm họa sập cầu này nằm trong số các thảm họa sập cầu lớn nhất của nhân loại.

Cách đây vài tháng, tại thành phố tôi đang ở cũng xảy ra vụ sập cây cầu dẫn tới sáu người chết. Vụ sập cầu đó khiến cả nước Mỹ chấn động và người ta lên kế hoạch kiểm tra lại tất cả các cây cầu đang hoạt động có cấu trúc tương tự. Tất cả các biện pháp đó được thực hiện nhằm tránh những bi kịch như thế có thể xảy ra trong tương lai.

Còn trong vụ sập cầu Cần Thơ, nguyên nhân từ đâu? Tới giờ hẳn chưa thể biết chính xác nguyên nhân. Cây cầu này sử dụng vốn ODA của Nhật và do đó, gần như là nghiễm nhiên, các nhà thầu Nhật được quyền đứng ra xây dựng và làm nhà thầu chính. Đến lượt mình họ lại thuê lại các nhà thầu phụ Việt Nam. Theo thông tin từ blog của nhà báo Đức Hiển, thư ký tòa soạn báo Pháp luật TP HCM thì tai họa xảy ra ở phần thi công của nhà thầu phụ Việt Nam. Xin trích lại đoạn này trên blog Đức Hiển:

“Gói thầu chính là cầu vượt qua sông Hậu dài 2.75 km là do phía Nhật Bản đang xây dựng thì đến nay vẫn ổn. Đường dẫn xuống cầu từ bờ Cần Thơ ra quốc lộ 1, dài 7,69km, do Trung Quốc đảm trách vẫn ổn

Còn gói thầu phụ, là đường dẫn lên cầu từ bờ Vĩnh Long dài 5.41km thì do Việt Nam thi công, chia thầu phụ cho các Tổng công ty Thăng Long, Tổng công ty 6, Tổng công ty 8, tất cả đều trực thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải Việt Nam. Phần thầu này phía Việt Nam vừa bắt tay vào thực hiện đã xảy ra sự cố nghiêm trọng. Đó là lý do mà danh sách những người bị thương và tử nạn vào sáng 26-9 toàn là người Việt Nam, không có một người nước ngoài nào cả.

Theo thông tin ban đầu, nguyên nhân sập nhịp cầu dẫn này là do hệ thống dàn giáo yếu.

Tại sao dàn giáo yếu ? Câu trả lời dường như không quá khó! “


Được biết việc thi công cầu Cần Thơ là việc rất khó do địa hình phức tạp, sông rộng và nền đất lại yếu. Trước kia nghe nói chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng từng nghiên cứu việc xây cầu với sự trợ giúp kỹ thuật của Mỹ nhưng cuối cùng đã quyết định không xây (cũng có thể có nguyên nhân do lo ngại về chiến tranh đang diễn ra nữa).

Đến giờ thì chưa thể kết luận rõ ràng về trách nhiệm của ai (sẽ còn có chỗ cho các cuộc đổ lỗi, đấm ngực và xoa lưng trong vài tháng tới). Nhưng ở đây hẳn sẽ là trách nhiệm liên đới của các nhà thầu cả chính và phụ, đặc biệt là trách nhiệm trực tiếp của các nhà thầu phụ Việt Nam- do là phía trực tiếp thi công.

Ở đây còn một vấn đề nữa liên quan tới việc đấu thấu. Đó là khả năng các nhà thầu chính, thường là công ty lớn, sau khi thắng thầu bèn đem ngay công việc bán lại cho các nhà thầu phụ và không có những biện pháp đảm bảo chất lượng công trình cần thiết. Các nhà thầu phụ do không có hy vọng thắng thầu nên phải thầu lại của các nhà thầu chính với giá thấp (do lợi nhuận chính sẽ thuộc về các nhà thầu chính) và đổi lại sẽ phải tìm cách tiết kiệm vật tư, hay nói cách khác là bớt xén công trình. Đó cũng là lý do khiến nhiều công trình ở Việt Nam, khoảng cách từ thiết kế tới thi công, từ hồ sơ dự thầu tới hiện thực thi công là rất xa. Có lẽ cần tới lúc rà soát thật kỹ lượng tất cả những việc này từ quy trình đấu thầu, thắng thầu cho tới việc kiểm tra chất lượng thi công.

Mà thôi, những việc rà soát, tìm trách nhiệm đó rồi sẽ được làm trong các ngày tới. Giờ là lúc chúng ta hãy nghĩ tới số phận của những công nhân đang nằm trong nhà xác, bệnh viện hay dưới những tấm bê tông khổng lồ. Nhiều người trong số đó là những kẻ tha phương, từ miền Bắc, miền Trung xa gia đình, cha mẹ, vợ con để đổi lấy những món tiền còm và một cơ hội tới được những miền đất mới. Rồi đấy cầu Cần Thơ sẽ được dựng lên, sẽ trở thành cây cầu dài rộng nhất nước và niềm tự hào của người dân đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ mong máu của những người công nhân đó và nước mắt của những người thân họ sẽ không trở thành những hy sinh vô ích. Và trong tương lai sẽ không có những hy sinh vô ích, những đau xót từ sự ăn cắp, lãng phí và vô trách nhiệm của những người liên quan.


Muốn nghe lại bài “New York Mining Disaster” như là một sự tribute tới những người đã và đang nằm dưới chân cầu.

”I keep straining my ears to hear a sound.
Maybe someone is digging unde
rground,
or have they given up and all gone home to bed,
thinking those who once existed must be dead…

Have you seen my wife, Mr. Jones?
Do you know what it's like on the outside?
Don't go talking too loud, you'll cause a landslide, Mr. Jones.”

Entry for September 26, 2007

Ahmadinejad, at Columbia, Parries and Puzzles

Columbia Is Divided by Bollinger Remarks

Iranian Leader, Calling Introductory Remarks Insulting, Addresses Columbia

Hiệu trưởng Columbia kiss ass các bạn Do Thái quá.

Ông ta có thể không nên mời (đúng hơn là phủ quyết thư mời của trường Quốc tế trực thuộc) ngay từ đầu. Còn đã mời mà dùng tới những từ ngữ đầy tính tuyên truyền như “Mr. President, you exhibit all the signs of a petty and cruel dictator. You are either brazenly provocative or astonishingly uneducated” trong Lời giới thiệu để chữa cháy, cải thiện hình ảnh bản thân thì tệ quá.

Chú Tổng thống Iran này có vẻ khá bản lĩnh, trả lời xem ra hay ho hơn Bush nhiều.

Tuesday, September 25, 2007

Giáo dục Đại học

1. Về các xếp hạng Đại học toàn cầu

Trong xếp hạng 500 trường Đại học mới nhất của trường Đại học Jiao Tong Thượng Hải năm 2007 thì có 188 trường ở Bắc Mỹ (166 ở Mỹ và 22 ở Canada), 208 trường ở châu Âu trong đó UK là 42, Đức 41, Pháp 23, Italy 20.

Châu Á có 100 trường trong đó Nhật Bản 33, Australia 17, Trung Quốc 14 (không kể Hongkong và Đài Loan), Hàn Quốc 8, Israel 7.

Số còn lại là 9 trường ở Nam Mỹ và 5 trường ở châu Phi (trong đó Nam Phi 4 và Ai Cập 1). Không có trường nào của Việt Nam lọt vào Top 500 Đại học này.

Trong Top 20 thì có 17 trường của Mỹ, 2 trường của Anh và 1 trường của Nhật.
Trong Top 100 có 54 trường của Mỹ, 34 trường của châu Âu, châu Á kể cả Úc có 9 trường (6 Nhật, 2 Úc, 1 Israel).

Nếu căn cứ theo tỷ lệ trên Top 100 thì thứ tự các quốc gia đứng đầu là Mỹ, Đức, Nhật, Pháp, Canada và Thụy Điển.

Xếp hạng của Jiao Tong dựa trên các nhân tố chính là chất lượng giáo dục (căn cứ vào số cựu học sinh đọat giải Nobel và Field), chất lượng giảng viên (theo số citations và giải Nobel giải Field), kết quả nghiên cứu (căn cứ vào các chỉ số citations) và lấy trọng số theo quy mô của đơn vị đào tạo. Cách tính của Jiao Tong nói chung sẽ nghiêng về phía các trung tâm đào tạo đỉnh cao, nhất là các trường của Mỹ và Anh vì những nhà khoa học xuất sắc đầu ngành hầu hết đều ở các nơi này. Do đó, trong 100 trường thì có 54 trường ở Mỹ và 11 trường ở Anh.

Một xếp hạng khác là xếp hạng 200 trường của Tạp chí Times (Anh). Xếp hạng của Times dựa theo 4 tiêu chí là chất lượng nghiên cứu, việc làm sau khi ra trường, tầm nhìn quốc tế và chất lượng giảng dạy. Trong xếp hạng này thì Mỹ và Anh vẫn đứng đầu về chất lượng giáo dục đại học, nhưng so với xếp hạng của Jiao Tong thì theo xếp hạng của Times, các trường Đại học của Anh được xếp hạng cao hơn với ba vị trí trong mười trường dẫn đầu (7 còn lại là của Mỹ). Nói chung theo ranking này thì nước Mỹ không còn chiếm vị trí áp đảo nữa. Trong 200 trường đứng đầu thì chỉ có 55 trường của Mỹ. Trong các nước còn lại, Anh có 29 trường, Đức 10, Pháp 10, Canada 7, Nhật 11, Úc 13, Thụy Sĩ 7, Trung Quốc 6, Bỉ 6. Đáng chú ý trong bảng xếp hạng này là thứ hạng rất cao của hai trường Đại học Trung Quốc là Bắc Kinh (14) và Thanh Hoa (28). Trong bảng xếp hạng của Jiao Tong thì hai trường này chỉ trong khoảng 150-200.

Xếp hạng của tạp chí Newsweek dựa cả vào hai xếp hạng của Times và Jiao Tong, với 50% căn cứ vào các chỉ tiêu của Jiao Tong và 40% căn cứ vào các chỉ tiêu của Times thêm vào đó là 10% dựa vào số tài liệu trong thư viện. Kết quả là một sự compromise của hai xếp hạng nói trên. Trong 20 trường dẫn đầu thì có 15 trường của Mỹ, 3 của Anh, 1 của Nhật và 1 của Canada. Trong 100 trường đứng đầu không có trường nào của Trung Quốc (không kể Hongkong) hay các nước đang phát triển.

Cuối cùng là xếp hạng của Cybermatrics Labs của Hộ Đồng Nghiên cứu Quốc gia Tây Ban Nha. Với quan điểm đề cao vai trò của mạng Internet như công cụ phổ biến thông tin cho nghiên cứu khoa học, xếp hạng này dựa vào các tiêu chí trên Internet của các trường Đại học có trang chủ trên mạng.

Các chỉ tiêu được lấy làm cơ sở gồm có Quy mô bao gồm số trang thu thập từ các công cụ tìm kiếm chủ yếu; Tiếp cận căn cứ vào số liên kết ngoài tới trang web của trường đại học đó, Phong phú căn cứ vào các dữ liệu dạng tài liệu từ các trang web đó và Học thuật căn cứ vào chỉ số từ Google Scholar. Như vậy xếp hạng này sẽ ưu tiên cho các trường Đại học có trang web tốt, nhiều thông tin và cũng ưu tiên cho các nước phát triển hơn các nước đang phát triển.Cũng có thể thấy rằng xếp hạng này sẽ có xu hướng ưu tiên cho các trường đại học nói tiếng Anh vì tiếng Anh hiện là ngôn ngữ phổ biến nhất trên Internet. Dữ liệu của Cybermatrics Lab hiện nay là lớn nhất, với xếp hạng lên tới 4000 trường Đại học trên toàn thế giới.

Xếp hạng của Cybermatrics cho thấy các trường Đại học Mỹ vẫn là các trường đi đầu trong việc sử dụng Web cho công việc học tập, trao đổi và nghiên cứu khoa học. Tất cả 20 trường đứng đầu đều là từ Mỹ. Trong 50 trường đứng đầu chỉ có 8 trường ở các nước khác (Canada và châu Âu). Đại học Tokyo, trường đứng đầu châu Á, đứng ở vị trí 59 và là một trong hai trường của châu Á có mặt trong Top 100 (cùng với Đại học Quốc gia Đài Loan). Trong Top 200 thì có 123 trường của Bắc Mỹ, 63 trường của châu Âu, 6 trường của châu Đại Dương và 5 của châu Á. Trung Quốc có 1 trường trong Top 200 và 5 trong Top 500.

Đáng chú ý là bảng xếp hạng này là bảng duy nhất có mặt các trường Đại học của Việt Nam. Có 71 trường Đại học Việt Nam có trang web được đưa vào cơ sở dữ liệu để tính toán (trong tổng số khoảng 12.000 trường Đại học trên toàn cầu). Trong đó có 10 trường cuả Việt Nam lọt được vào trong số 5000 trường. Trong 10 trường thì chỉ có 2 trường phía Bắc (Đại học Quốc gia và Đại học Bách khoa Hà Nội), 1 trường của miền Trung là Đại học Đà Nẵng, 1 trường ở Đồng bằng sông Cửu Long là Đại học Cần Thơ còn lại 6 trường trong thành phố Hồ Chí Minh. Có một trường Đại học Dân lập trong số này là Đại học Dân lập Kỹ thuật và Công nghệ TP HCM


Thứ tự toàn cầu

Thứ tự trong nước

Tên trường

Quy mô

Tiếp cận

Phong phú

Học thuật

1920

1

Đại học Khoa học tự nhiên TP HCM

2,403

1,887

1,597

3,433

2190

2

Đại học Bách khoa TP HCM

3,346

2,813

981

816

2532

3

Đại học Cần Thơ

2,840

3,565

1,198

1,686

2850

4

Đại học Quốc gia Việt Nam

3,598

3,228

2,421

2,859

3156

5

Đại học Bách khoa Hà Nội

6,013

1,665

4,287

4,941

4217

6

Đại học Dân lập Kỹ thuật và Công nghệ TP HCM

3,547

4,633

5,812

4,274

4462

7

Đại học Quốc gia TP HCM

5,923

3,648

3,973

7,100

4665

8

Đại học Đà Nẵng

5,694

4,449

2,671

7,100

4686

9

Đại học Nông Lâm

6,343

5,077

3,544

2,561

4718

10

Đại học Kinh tế TP HCM

4,533

5,464

2,294

6,087


Nhìn vào các bảng xếp hạng các trường Đại học có thể thấy vị thế của các trường Đại học ở Việt Nam như thế nào. Chúng ta không có trường nào trong tất cả các Top 500 của thế giới. Cũng không có trường nào của Việt Nam hay Top 100 của châu Á dù là theo xếp hạng của Jiao Tong, Times hay New Week. Với thực trạng như thế thì mục tiêu đạt 450 sinh viên/1 vạn dân để tương đương với các nước phát triển từ tỷ lệ hiện nay là 170 sinh viên/1 vạn dân (thông tin trên báo CAND) liệu có thực tế hay không? Xét trên một khía cạnh khác thì liệu đó có phải là việc chạy theo số lượng mà không chú ý tới chất lương không?

Trong thế kỷ 21, việc gia tăng chất lượng nguồn nhân lực là rất cần thiết để đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc. Nhưng việc gia tăng chất lượng nhân lực không nhất thiết đồng nghĩa với mở rộng Đại học một cách đại trà mà ít quan tâm tới nâng cao chất lượng.

2. Chương trình đào tạo 20.000 Tiến sĩ cho tới 2020.

Bài báo này trên CAND phê phán bài của ông Nguyễn Trung cũng có khá nhiều vấn đề (tại sao đăng ở báo CAND, bài đăng dùng bút danh và không ghi tác giả làm gì, phê phán Nguyễn Trung nhưng lại không nêu đích danh…). Nhưng bài báo đó cũng cung cấp thêm một số thông tin và số liệu cần thiết.

Theo bài báo, Bộ Giáo dục dự kiến sẽ đào tạo 20.000 tiến sĩ cho tới năm 2020 trong đó có 10.000 tiến sĩ là đào tạo nước ngoài và 10.000 là trong nước. Số lượng tiến sĩ hiện tại trong nước chỉ là 7500 người. Chưa rõ trong kế hoạch của Bộ Giáo dục có các con số cụ thể về số lượng tiến sĩ được gửi đi đào tạo và số dự kiến sẽ trở về mỗi năm theo lộ trình cho tới năm 2020 không? (có thể có các con số này nhưng tôi không được biết). Cứ giả thiết là chia đều tức là trong 12 năm, mỗi năm cần đào tạo chừng 1600 tiến sĩ, trong đó khoảng một nửa là đào tạo trong nước. Nhưng hiện nay cả nước chỉ có chừng hơn 7000 tiến sĩ và không phải là ai cũng làm trong ngành giáo dục, tôi nghỉ chỉ chừng một nửa tức là khoảng 4000 là cùng (ai có số liệu thì có thể cho biết chính xác hơn).

Vào những năm đầu tiên của đề án này chúng ta sẽ phải cứ mỗi năm cho ra ít nhất 7-800 tiến sĩ trong nước từ một nguồn lực vẻn vẹn hơn 7000 tiến sĩ, một tỷ lệ có thể nói là đòi hỏi các tiến sĩ hiện tại phải chạy xô may ra mới đáp ứng kịp. Hơn nữa, tất cả các trung tâm đào tạo ở Việt Nam hiện nay đều có chất lượng thấp so với quốc tế và khu vực. Với các trường Đại học Top 5000 thì chất lượng giữa các tiến sĩ trong nước và nước ngoài hẳn là còn rất xa- đấy là trên cơ sở các tiến sĩ trong nước được đào tạo nghiêm túc chứ không phải mua bằng hay thuê người làm hộ luận án (trên các trang rao vặt trong nước đã có những rao vặt làm thuê tới luận án Tiến sĩ).

Còn với đào tạo ở nước ngoài, việc mỗi năm gửi 8-900 sinh viên sang nước ngoài học Tiến sĩ là việc có thể làm được và cần thiết phải làm. Nhưng ngay cả việc này cũng là vấn đề vì cần có những cơ chế ràng buộc những người đi học phải trở về nước. Sự ràng buộc này chỉ có thể có với những người đi theo học bổng Nhà nước hay các dạng học bổng như VEF hay AUSAID. Với những người đi theo các nguồn khác, cần tính tới khả năng họ ở lại nước ngoài lâu dài hay ngắn
hạn sau khi tốt nghiệp. Nói chung cứ nói vo này thì khó vì không có số liệu cụ thể về các ước tính của Bộ Giáo dục nhưng nếu cứ đà như hiện nay thì để có thể có thêm 20.000 tiến sĩ trong 12 năm nữa là một việc khó. Bộ Giáo dục cần có những đánh giá cụ thể hơn chứ không thể cứ lấy Nghị quyết ra làm kim chỉ nam.

Entry for September 25, 2007

Dani Rodrik ở trường Harvard (bạn Quốc Anh chắc biết ông này) thử tìm mối quan hệ giữa mức độ popularity của blog với chất lượng nghiên cứu của các economic blogger. Số liệu về độ popularity của blog dựa trên trang Technorati chuyên theo dõi blog và được ghi lại trên 26econ.com. Số liệu về scholarship của các tác giả căn cứ vào chỉ số trên Google Scholar. Link bài ở đây.

Có thể có những khả năng sau: nếu tác giả nổi tiếng sẽ có nhiều người truy cập blog. Như vậy quan hệ sẽ là tỷ lệ thuận. Ngược lại, cũng có khả năng là những người viết chịu khó viết blog hay tương tự (viết báo, viết sách phổ biến kiến thức) sẽ không có nhiều thời gian để nghiên cứu chuyên sâu, và như thế thì quan hệ sẽ là tỷ lệ nghịch. Kết quả thế nào?

Kết quả có phần bất ngờ vì có sự tương quan thuận giữa scholarship và bloggership “And yet the correlation between how well one does on bloggership and on scholarship turns out to be positive and statistically highly significant. The rank correlation between the two is 0.27, and it is significant at the 99% level of confidence.” Tức là các blogger phổ biến nhất thông thường cũng của các nhà kinh tế có tiếng. Ví dụ trong top 10 blogger có thể thấy các tên tuổi lớn như Dani Rodrik, Mankiw, Brad DeLong…

Tuy nhiên nếu không kể 10 blog nhiều người truy cập nhất thì mối quan hệ trở nên không có ý nghĩa thống kê, tức là việc một nhà kinh tế có blog được truy cập nhiều không liên quan thuận hay nghịch với việc anh ta có được đánh giá cao trong nghề nghiệp hay không. Điều này cũng dễ hiểu vì các kỹ năng khi viết blog và khi làm nghiên cứu là không giống nhau.

bloggership

Top 25 Economics Blog, theo 26aecon.com

Blog

Rank

Technorati

Freakonomics

1

137

Marginal Revolution

2

590

Greg Mankiw's Blog

3

637

The Big Picture

4

1376

Economist's View

5

2584

The Becker-Posner Blog

6

2802

Brad DeLong

7

4296

EconLog

8

4561

Cafe Hayek

9

7011

Adam Smith Institute

10

7714

Dani Rodrik

11

8219

Stumbling and Mumbling

12

8494

TaxProf Blog

13

8802

Real Time Economics

14

9089

Mish's Global Economic Trend Analysis

15

9460

Econbrowser

16

9642

Angry Bear

17

10360

Trader Mike

18

12728

SCSUScholars

19

13071

Megan McArdle (Asymmetrical Information)

20

14659

Trader's Narrative

21

14982

The Indian Economy Blog

22

15041

VoxEU

23

15917

Environmental Economics

24

17531





Lạm phát

Có vẻ lạm phát đang là vấn đề gây nhiều lo ngại ở Việt Nam. Để tạm các link ở đây.

Nguyên nhân tiền tệ của lạm phát - Nguyễn Đức Thành (hình như giờ làm ở Bộ Tài chính?)


Thông điệp của lạm phát - Nguyễn Văn Minh (trường KTQD?)

Kiềm chế lạm phát: Liệu có thất bại?- Báo Lao Động

“Rút tiền khỏi lưu thông là thuốc đặc trị chữa lạm phát”- Nguyễn Đại Lai, Ngân hàng Nhà nước

Lạm phát cao chủ yếu do tăng tiền- Lê Xuân Nghĩa, Ngân hàng Nhà nước



Tôi đánh cược với những ai nói lạm phát sẽ 2 con số!- Nguyễn Đồng Tiến, Phó Thống đốc NHNN



Đối phó với lạm phát? Giảm tăng cung tiền và tín dụng- David Dapice, chương trình Fullbright.



Lạm phát - chống như thế nào?- Trần Xuân Giá

Lạm phát vẫn đang trong tầm kiểm soát - Trần Đình Thiên (Viện Kinh tế học)

Bổ sung thêm hai bài của Vũ Quang Việt (Mục Kinh tế của báo Lao động dạo này có vẻ khá).

.Chống lạm phát - phải thay đổi từ quan điểm

Lạm phát và nợ nước ngoài: Cách nào để không phải trả giá?

Update tiếp: Bổ sung bài của Võ Trí Thành

Chống lạm phát: Chính sách tiền tệ bị can thiệp quá mức



Monday, September 24, 2007

Entry for September 24, 2007

Hai bài mới trên blog của nhà báo Huy Đức đều rất quan trọng, đáng đọc và bình luận.

Bài gần nhất đưa tin và bình luận quanh “phủ dụ” của Chủ tịch nước nhân ngày Trung thu.

Đáng chú ý là đoạn sau “Trung Thu trăng sáng, Cụ Chủ tịch thân ái gửi thư thăm. Các báo, không thể lơ tơ mơ, đồng loạt đăng ngay đầu trang nhất. Chứng tỏ, các ban biên tập, giờ đây đã biết! Hôm 4-9, có ít nhất 3 tờ báo nhận được lệnh “tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm cá nhân, đồng thời có hình thức xử lý” vì đã không đăng lên trang nhất bức thư, mà Cụ Chủ tịch gửi học trò, nhân ngày khai giảng. Những báo chỉ chạy một cái tít ngoài trang nhất, rồi đưa thư của Cụ vào trang trong, cũng phải kiểm điểm, vì đã “không thấy hết tầm quan trọng của sự kiện”.

Những tờ báo bị kỷ luật lần trước là do không biết được làn đường bên phải, hay nói theo ngôn ngữ Newspeak (Orwell) thì là ““không thấy hết tầm quan trọng của sự kiện” nên bị xử phạt. Sau đó các báo đều đã rút kinh nghiệm để lần này chạy đúng tít tắp làn đường dành cho mình: thư Cụ được đưa lên trang Nhất, còn các tin nóng bỏng kiểu như Nguyễn Thị Huyền lấy chồng thì phải tít tắp lặn vào trong.
Trong bài còn có đoạn sau “Nếu những tờ báo đoàn thể hay địa phương, đôi khi vẫn đăng một vài ý kiến của nhân dân, thì anh Bush mà nói linh tinh, báo ta “mắng”, ngoại giao vẫn không gặp gì rắc rối. Đồ ăn Trung Quốc không sạch, tất nhiên phải khuyến cáo đồng bào ta. Để bên ngoài họ nghĩ, báo chí- Chính phủ chỉ là “trên bảo, dưới nghe”, thì khi báo chí nói tiếng nói nhân dân, người ta dựng đại sứ mình dậy lúc nửa đêm, người ta mắng, mình cũng phải bồ hòn làm ngọt.”

Tuy chỉ là tình huống nhưng hoàn toàn có thể hiểu rằng đó là một tình huống không xa sự thực lắm: đại sứ Việt Nam chính phủ Trung Quốc “mắng” do báo chí Việt Nam đưa tin về đồ ăn Trung Quốc không sạch. Đến lượt mình, chắc chắn các nhà báo và tờ báo đưa tin đó cũng sẽ lại bị “mắng”-không cần biết là tin đó đúng hay không đúng? Nếu những sự việc đó xảy ra trên thực tế thì có phải là sự kiểm soát, thao túng báo chí không chỉ dừng lại trong biên giới quốc gia?

Trong bài của bác Huy Đức còn nêu ý về việc ông Nguyễn Minh Triết xưng Bác với các cháu- chú ý là chữ Bác viết hoa chứ không phải viết thường.


Bài thứ hai của Huy Đức là phỏng vấn cựu Bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc về Hiến pháp Việt Nam.

Theo ông Lộc, nội dung “đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân” hoàn toàn dựa trên quan điểm của Tổng Bí thư Lê Duẩn và khác với ý kiến ban đầu của ban soạn thảo Hiến pháp. Ông Lộc cũng nói “Phải thừa nhận, những khủng hoảng xuất hiện sau Hiến pháp 80 [Hiến pháp thông qua dưới thời quyền lực tuyệt đối của Lê Duẩn] là rất to lớn và cho đến nay vẫn chưa thể nào khắc phục hết được.

Một ý nữa là việc thông qua Hiến pháp 1959 trên thực tế là vi hiến, vì không tuân thủ theo nội dung quy định trong Hiến pháp 1946 là “sửa đổi Hiến pháp phải do 2/3 tổng số nghị viên yêu cầu; những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Hay Hiến pháp 1980 quy định “Nhà nước độc quyền về ngoại thương” nhưng tới khi Đổi mới vẫn mở cửa thị trường mà không thay đổi Hiến pháp, tức là cũng là những hành vi Vi hiến.

Vài ý quan trọng khác:

“Khuynh hướng người cầm quyền, lạm dụng quyền trở nên phổ biến. “An ninh Quốc gia” thường được sử dụng để biện minh cho sự lạm quyền và xã hội lại dường như có khuynh hướng chấp nhận nó. …Tôi nghĩ là chúng ta vẫn rất cần phải nhận thức lại về các quyền tự do mà Hiến pháp đã trao cho người dân.”

“Tuy nhiên, tôi nói không đơn giản là bởi để có toà án hiến pháp, chúng ta không chỉ sửa Hiến pháp mà trước hết, phải sửa phương thức lãnh đạo của Đảng. Nói thì nghe to tát, nhưng chỉ đơn giản là Đảng phải tuyệt đối tuân thủ điều 4 Hiến pháp, tức là, không để tổ chức nào đứng trên Hiến pháp và pháp luật. Muốn như vậy, phải nhận thức lại từ đầu.”

Entry for September 24, 2007

Bài trả lời phỏng vấn này trên báo Lao Động của ông Bùi Văn Nam Sơn cũng nhiều ý đáng chú ý. Bùi Văn Nam Sơn cũng là gương mặt dịch sách kinh khủng thật, dịch và chú giải những cuốn sách dày hàng ngàn trang của Kant, Hegel, hai tác giả nổi tiếng khó.

“Đội ngũ dịch giả, như ông nói, đã thiếu lại yếu, giải quyết vấn đề này thế nào, thưa ông?

- Có lẽ chúng ta nên học kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ biết rằng công cuộc cải cách giáo dục phải bắt rễ từ nền móng khoa học. Do đó, bên cạnh việc đào tạo chuyên gia ở ngoài nước, họ chủ yếu dựa vào lực lượng hùng hậu tại chỗ là sinh viên, nếu không, chẳng biết lấy đâu ra. Giáo sư hướng dẫn sinh viên làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ, bằng cách cho họ dịch, chú giải, bình luận những tác phẩm kinh điển trên thế giới. Đây là nguồn lực vô tận, lại không tốn kém nhiều mà dễ tổ chức có hệ thống. Nhìn phương Tây mà xem.

Trong thời gian tương đối ngắn, họ đã có trong tay hầu hết những bản dịch đáng tin cậy về văn hóa và văn minh phương Đông. Họ đã làm theo cách ấy, và còn có thuận lợi là dựa vào nguồn du học sinh Châu Á ở nước họ để dịch kinh điển phương Đông, có sự thẩm định của ban giám khảo. Hai bên cùng có lợi, và người tốt nghiệp thực sự có được kiến thức vững vàng.”

Kể ra với các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ về văn học, triết học trong nước hoàn toàn có thể khuyến khích làm như vậy, chứ quanh đi quẩn lại toàn Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Hồ Xuân Hương cho luận văn văn học hay chủ nghĩa Marx hay tư tưởng Hồ Chí Minh cho luận văn Triết học thì dân trí vẫn nghèo nàn mãi thôi.

Đối với nguồn lực du học sinh du học thì có lẽ hơi hiếm người đi du học các ngành như triết học hay văn học, nhưng với các ngành khoa học xã hội khác như kinh tế, chính trị, xã hội học, luật…thì có khá nhiều người đi học. Việc phổ biến các công trình quan trọng trong các ngành học này cũng là một việc cần thiết.

2.
Hoa hậu Nguyễn Thị Huyền đã kết hôn

Em Huyền lấy chồng sớm thế chứ.

3.Hoa hậu Mai Phương: Về quê nhà lập nghiệp

Ảnh em Phương trên báo xấu quá!.

Mà hoa hậu nào cũng đi Anh nhỉ, các bạn ở Anh thích thế.



Entry for September 24, 2007


Bài này có một số ý đáng chú ý. Chuyện thứ nhất là việc ông Phan Đình Diệu gửi thư tới Thủ tướng Phan Văn Khải phản đối đề án 112 và không được hồi âm. Một nhà trí thức cỡ Phan Đình Diệu và từng là Phó Chủ tịch chương trình Công nghệ thông tin còn bị đối xử như thế. Nhưng mình cũng hơi băn khoăn tại sao vào thời điểm đó, ông Diệu không viết báo nêu lên một số điểm bất hợp lý của chương trình này. Cũng có thể báo sẽ không đăng nhưng đăng hay không thì cũng là những việc làm cần thiết. Không chỉ ông Diệu mà ông Nguyễn Quang A, nguyên chủ tịch Hội tin học cũng gửi thư và cũng không nhận được hồi âm. Việc không nhận được hồi âm này kể ra cũng dễ hiểu. Cái đề án 112 ấy là mối làm ăn béo bở của các vị trong Văn phòng Chính phủ vậy mà thư phản đối đề án này đều được gửi cho Thủ tướng, tức là phải qua tay của Văn phòng Chính phủ, thế thì liệu chúng có đến được tay người được gửi hay không?

Chuyện thứ hai là một chi tiết quan trọng mà ông Quốc khéo léo gài vào: “năm 1919, các nước thắng trận trong cuộc Thế chiến Một họp nhau ở Vec-xay của nước Pháp để bàn chuyện tương lai của thế giới. Tổng thống của Hoa Kỳ lúc đó mang đến hoà hội một chính sách trong đó hứa hẹn quan tâm đến lợi ích của các nước nhược tiểu. Nước ta lúc đó là thuộc địa của Pháp cũng nằm trong số các nước nhược tiểu. Do vậy một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp đứng đầu là cụ Phan Châu Trinh và trẻ tuổi là Nguyễn Tất Thành cùng viết một văn bản gửi Hoà hội Vec-xay đưa ra “những yêu sách của người An Nam” và được ký bằng cái tên chung là “Nguyễn Ái Quốc”.”


Trong chính sử ở Việt Nam, việc Nguyễn Ái Quốc gửi thư tới hội nghĩ Vec-xay được quy về một người duy nhất là Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Nhưng thực ra Nguyễn Ái Quốc ban đầu là bút danh chung của một số người yêu nước Việt Nam nổi bật ở Paris thời đó, cụ thể là năm con rồng (Ngũ Long): Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền. Năm người này có liên kết chặt chẽ và ảnh hưởng tới lẫn nhau nhưng có những khuynh hướng chính trị không giống nhau. Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường có tư tưởng cách tân, đổi mới chính trị trong nước qua con đường hòa bình, dân chủ nghị viện- họ cũng là hai người nhiều tuổi nhất nhóm. Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền chịu ảnh hưởng của tư tưởng xã hội và cộng sản, nhưng về sau Nguyễn Thế Truyền thoái chí, bỏ tư tưởng cộng sản và cũng không hoạt động chính trị chống đối sau khi về nước (sau năm 1954, ông Truyền từng ra ứng cử Phó tổng thống Việt Nam Cộng hòa trong một liên danh đối lập dưới thời Ngô Đình Diệm). Tư tưởng của Nguyễn An Ninh thì rất phức tạp, ảnh hưởng từ Tagore, Gide, cho tới Marx, Nietzsche, Bakunin, Tôn Trung Sơn, Trosky... Sau này ông là gương mặt nổi bật nhất của phong trào phản kháng ở Nam kỳ trong suốt giai đoạn 1920-1940.

Bài này của ông Quốc có lẽ là bài đầu tiên trên báo chí trong nước của một sử gia “nội địa” công nhận cái tên Nguyễn Ái Quốc ký trong b
ức thư gửi các cường quốc ở hội nghị Vec-xay là chữ ký chung của nhóm Nguyễn Ái Quốc. Sau này, khi Nguyễn Tất Thành đứng ra làm chủ báo Le Paria, ông mới dùng luôn bút danh chung này khi viết bài và dần dần bút danh đó trở thành tên gọi riêng của ông.

Sunday, September 23, 2007

Trung thu

yfla.wrap("This multimedia content requires Flash version 9 and above.", "Upgrade Now.", "http:\/\/www.adobe.com\/shockwave\/download\/download.cgi?P1_Prod_Version=ShockwaveFlash", "
Get this widget | Track details |eSnips Social DNA


V\u00e0o trang web Thi Vi\u1ec7n Vi\u1ec7t Nam c\u1ee7a \u0110\u00e0o Trung Ki\u00ean, copy v\u00e0i b\u00e0i th\u01a1 v\u1ec1 thu. H\u00ecnh nh\u01b0 mai l\u00e0 Trung thu?


Thu T\u1ee9

L\u00fd B\u1ea1ch

Thu phong thanh,
Thu nguy\u1ec7t minh.
L\u1ea1c di\u1ec7p t\u1ee5 ho\u00e0n t\u00e1n,
H\u00e0n nha th\u00ea ph\u1ee5c kinh.
T\u01b0\u01a1ng t\u01b0, t\u01b0\u01a1ng ki\u1ebfn tri h\u00e0 nh\u1eadt ?
Th\u1eed th\u00ec th\u1eed d\u1ea1 nan vi t\u00ecnh.

B\u1ea3n d\u1ecbch c\u1ee7a L\u00ea Nguy\u00ean L\u1ef1u

Gi\u00f3 thu l\u00e0nh
Tr\u0103ng thu thanh
L\u00e1 r\u01a1i t\u1ee5 l\u1ea1i t\u00e1n
Qu\u1ea1 l\u1ea1nh ch\u1ee3t r\u00f9ng m\u00ecnh
Th\u01b0\u01a1ng nh\u1edb, bi\u1ebft bao gi\u1edd m\u1edbi g\u1eb7p ?
L\u00fac n\u00e0y \u0111\u00eam \u1ea5y ng\u1ea9n ng\u01a1 t\u00ecnh...

--

Thu\u1ef7 \u0111i\u1ec7u ca \u0111\u1ea7u - Trung thu

T\u00f4 Th\u1ee9c

Minh nguy\u1ec7t k\u1ef7 th\u1eddi h\u1eefu ?
B\u1ea3 t\u1eedu v\u1ea5n thanh thi\u00ean.
B\u1ea5t tri thi\u00ean th\u01b0\u1ee3ng cung khuy\u1ebft,
Kim t\u1ecbch th\u1ecb h\u00e0 ni\u00ean.
Ng\u00e3 d\u1ee5c th\u1eeba phong quy kh\u1ee9,
H\u1ef1u kh\u1ee7ng qu\u1ef3nh l\u00e2u ng\u1ecdc v\u0169,
Cao x\u1ee9 b\u1ea5t th\u1eafng h\u00e0n.
Kh\u1edfi v\u0169 l\u1ed9ng thanh \u1ea3nh,
H\u00e0 t\u1ef1 t\u1ea1i nh\u00e2n gian.

Chuy\u1ec3n chu c\u00e1c,
\u0110\u00ea \u1ef7 h\u1ed9,
Chi\u1ebfu v\u00f4 mi\u00ean.
B\u1ea5t \u01b0ng h\u1eefu h\u1eadn,
H\u00e0 s\u1ef1 tr\u01b0\u1eddng h\u01b0\u1edbng bi\u1ec7t th\u1eddi vi\u00ean
Nh\u00e2n h\u1eefu bi, hoan, ly, h\u1ee3p,
Nguy\u1ec7t h\u1eefu \u00e2m, t\u00ecnh, vi\u00ean, khuy\u1ebft,
Th\u1eed s\u1ef1 c\u1ed5 nan to\u00e0n.
\u0110\u00e1n nguy\u1ec7n nh\u00e2n tr\u01b0\u1eddng c\u1eedu,
Thi\u00ean l\u00fd c\u1ed9ng thi\u1ec1n quy\u00ean


B\u1ea3n d\u1ecbch c\u1ee7a Nguy\u1ec5n Ch\u00ed Vi\u1ec5n

Tr\u0103ng s\u00e1ng bao gi\u1edd c\u00f3?
N\u00e2ng ch\u00e9n h\u1ecfi tr\u1eddi cao
Ch\u1eb3ng hay tr\u00ean \u0111\u00e2y cung khuy\u1ebft
\u0110\u00eam \u0111\u00f3 nh\u1eb1m n\u0103m nao?
R\u1eafp \u0111\u1ecbnh c\u01b0\u1ee1i m\u00e2y l\u00ean \u0111\u1ebfn
Ch\u1ec9 s\u1ee3 l\u1ea7u qu\u1ef3nh \u0111i\u1ec7n ng\u1ecdc
Cao ng\u1ea5t l\u1ea1nh l\u00f9ng sao?
\u0110\u1ee9ng m\u00faa v\u1eddi thanh \u1ea3nh
Tr\u1ea7n th\u1ebf kh\u00e1c chi \u0111\u00e2u.

Xoay g\u00e1c \u0111\u1ecf
Lu\u1ed3n song l\u1ee5a
R\u1ecdi t\u00ecm nhau
Ch\u1eb3ng n\u00ean c\u1eebu h\u1eadn
Sao l\u1ea1i nh\u1eb1m t\u1ecf l\u00fac xa nhau
Ng\u01b0\u1eddi c\u00f3 bu\u1ed3n, vui, ly, h\u1ee3p
Tr\u0103ng c\u00f3 t\u1ecf, m\u1edd, tr\u00f2n, khuy\u1ebft
T\u1ef1 c\u1ed5 v\u1eb9n to\u00e0n \u0111\u00e2u
Ch\u1ec9 nguy\u1ec7n ng\u01b0\u1eddi tr\u01b0\u1eddng c\u1eedu
Ng\u00e0n d\u1eb7m d\u01b0\u1edbi tr\u0103ng th\u00e2u.

B\u00e0i h\u00e1t tr\u00ean c\u1ee7a \u0110\u1eb7ng L\u00ea Qu\u00e2n h\u00ecnh nh\u01b0 d\u1ef1a tr\u00ean b\u00e0i th\u01a1 tr\u00ean c\u1ee7a T\u00f4 Th\u1ee9c. Nh\u1eafc t\u1edbi \u0110\u1eb7ng L\u1ec7 Qu\u00e2n, l\u1ea1i nh\u1edb t\u1edbi b\u00e0i h\u00e1t \u201c\u00c1nh tr\u0103ng kia n\u00f3i h\u1ed9 l\u00f2ng em\u201d.");To view this multimedia content, please enable Javascript.

Saturday, September 22, 2007

Entry for September 22, 2007

Image:310 to Yuma poster.jpg

A new Western classic. Highly recommended.


2. Xem Knocked Up, quả là hilarious, nhiều chỗ crude humor nhưng không cheap mà brutally honest. Xem phim này cũng thấy thông cảm cho nỗi sợ sinh đẻ của nhiều phụ nữ. Hình dung phụ nữ sau khi đẻ chắc giống với người suýt chết sống lại, kiểu như đang từ đau đớn, sợ hãi chuyển thành hạnh phúc và nhẹ nhõm. Mấy đứa trẻ trong phim cũng thật là cute, nhất là đứa út nhà cô chị, so cute.
Đây là đoạn hai anh chị have sex trong khi chị ấy đang pregnant.

Chị: - Come on, harder.
Anh: - I can't do it harder.
Chị: Why? Come on. Come on, just do it. Deeper.
Anh: - I can't.
Chị: - Oh, why?
Anh: - I'll poke the baby if I go deeper.
Chị: - Oh, Come on! Just do it!
….
Anh: All I'm thinking of is that I'm gonna...I weigh over 200 pounds.
Chị: - Just get over it!
Anh: - I can't do it. Can you just get on top? All I see is our baby getting poked in the face by my penis.


Friday, September 21, 2007

Pretend you're happy when you're blue

yfla.wrap("This multimedia content requires Flash version 9 and above.", "Upgrade Now.", "http:\/\/www.adobe.com\/shockwave\/download\/download.cgi?P1_Prod_Version=ShockwaveFlash", "
Get this widget | Track details |eSnips Social DNA



\u0110\u1ecdc Ph\u00eda Nam bi\u00ean gi\u1edbi, ph\u00eda T\u00e2y m\u1eb7t tr\u1eddi c\u1ee7a Harukami Murakami, b\u1ea3n d\u1ecbch c\u1ee7a Cao Vi\u1ec7t D\u0169ng. Cu\u1ed1n n\u00e0y ch\u1eafc l\u00e0 ti\u1ec3u thuy\u1ebft ng\u1eafn v\u00e0 c\u0169ng d\u1ec5 \u0111\u1ecdc nh\u1ea5t c\u1ee7a Murakami, t\u1edb \u0111\u1ecdc ch\u1ec9 ch\u1eebng trong 3 ti\u1ebfng, hai ti\u1ebfng \u0111\u00eam h\u00f4m tr\u01b0\u1edbc v\u00e0 m\u1ed9t ti\u1ebfng t\u1ed1i h\u00f4m nay (trong khi The Wind-Up Bird Chronicle ch\u1eb3ng h\u1ea1n, \u0111\u1ecdc lay l\u1eaft ch\u1eebng 2 th\u00e1ng). Kh\u00f4ng ph\u1ee9c t\u1ea1p v\u00e0 ho\u00e0n ch\u1ec9nh nh\u01b0 Bi\u00ean ni\u00ean k\u00fd chim v\u1eb7n d\u00e2y c\u00f3t, c\u00f3 th\u1ec3 coi Ph\u00eda Nam bi\u00ean gi\u1edbi nh\u01b0 m\u1ed9t truy\u1ec7n ng\u1eafn k\u00e9o d\u00e0i, m\u1ed9t kh\u00fac nh\u1ea1c Jazz bi\u1ebfn t\u1ea5u nghe trong m\u1ed9t \u0111\u00eam m\u01b0a, ch\u1ee9a \u0111\u1ef1ng giai \u0111i\u1ec7u v\u1ec1 nh\u1eefng \u0111i\u1ec1u mu\u1ed1n n\u00f3i v\u00e0 ch\u01b0a n\u00f3i, nh\u1eefng kho\u1ea3ng tr\u1ed1ng v\u00e0 k\u00fd \u1ee9c, nh\u1eefng ham mu\u1ed1n v\u00e0 s\u1ef1 bu\u1ed3n b\u00e3 dai d\u1eb3ng, nh\u01b0 gi\u1ea5c m\u01a1 x\u00f3t xa v\u1ec1 m\u1ed9t ng\u01b0\u1eddi n\u00f4ng d\u00e2n Siberia c\u1ee9 \u0111i m\u00e3i, \u0111i m\u00e3i v\u1ec1 ph\u00eda T\u00e2y m\u1eb7t tr\u1eddi v\u00e0 r\u1ed3i g\u1ee5c ch\u1ebft tr\u00ean \u0111\u01b0\u1eddng \u0111i (C\u00f3 nhi\u1ec1u c\u00e1ch s\u1ed1ng. C\u00f3 nhi\u1ec1u c\u00e1ch ch\u1ebft. Nh\u01b0ng c\u00f3 quan tr\u1ecdng g\u00ec \u0111\u00e2u. \u0110i\u1ec1u duy nh\u1ea5t c\u00f2n l\u1ea1i l\u00e0 sa m\u1ea1c). C\u1ed1t truy\u1ec7n kh\u00f4ng c\u00f3 g\u00ec \u0111\u1eb7c bi\u1ec7t, nhi\u1ec1u \u0111o\u1ea1n v\u0103n l\u1ecfng l\u1ebbo v\u00e0 h\u01a1i th\u1eeba th\u00e3i nh\u01b0ng c\u00f3 nhi\u1ec1u c\u00e2u v\u0103n r\u1ea5t \u0111\u1eb9p v\u00e0 nhi\u1ec1u c\u1ea3m x\u00fac- nh\u1eefng th\u1ee9 m\u00e0 Murakami r\u1ea5t c\u00f3 kh\u1ea3 n\u0103ng t\u1ea1o ra nh\u01b0ng lu\u00f4n t\u1ef1 d\u00e8 ch\u1eebng v\u00e0 ti\u1ebft ch\u1ebf m\u00ecnh trong c\u00e1c t\u00e1c ph\u1ea9m sau n\u00e0y. Cu\u1ed1i truy\u1ec7n l\u00e0 chi ti\u1ebft ng\u01b0\u1eddi \u0111\u00e0n \u00f4ng 37 tu\u1ed5i v\u00f9i m\u1eb7t v\u00e0o hai b\u00e0n tay v\u00e0 ngh\u0129 t\u1edbi m\u1eb7t bi\u1ec3n d\u01b0\u1edbi c\u01a1n m\u01b0a:

\u201c\u1ede t\u1eadn s\u00e2u b\u00f3ng t\u1ed1i \u0111\u00f3, t\u00f4i ngh\u0129 \u0111\u1ebfn m\u1eb7t bi\u1ec3n d\u01b0\u1edbi c\u01a1n m\u01b0a. Tr\u1eddi m\u01b0a kh\u00f4ng ti\u1ebfng \u0111\u1ed9ng tr\u00ean \u0111\u1ea1i d\u01b0\u01a1ng r\u1ed9ng l\u1edbn m\u00e0 kh\u00f4ng ai bi\u1ebft c\u1ea3. Nh\u1eefng gi\u1ecdt n\u01b0\u1edbc \u0111\u1eadp l\u00ean m\u1eb7t n\u01b0\u1edbc im l\u1eb7ng, v\u00e0 ngay c\u1ea3 nh\u1eefng con c\u00e1 c\u0169ng kh\u00f4ng c\u00f3 ch\u00fat \u00fd th\u1ee9c n\u00e0o v\u1ec1 \u0111i\u1ec1u \u0111\u00f3\u201d.

M\u1ed9t h\u00ecnh \u1ea3nh c\u00f3 th\u1ec3 tr\u1edf n\u00ean s\u00e1o n\u1ebfu nh\u01b0 kh\u00f4ng c\u00f3 chi ti\u1ebft nh\u1eefng con c\u00e1 c\u0169ng kh\u00f4ng c\u00f3 \u00fd th\u1ee9c v\u1ec1 nh\u1eefng gi\u1ecdt n\u01b0\u1edbc \u0111\u1eadp tr\u00ean m\u1eb7t n\u01b0\u1edbc. S\u1ef1 \"\u0111\u00e1nh r\u01a1i\" cu\u1ed1i c\u00f9ng trong c\u00f5i im l\u1eb7ng tuy\u1ec7t \u0111\u1ed1i v\u00e0 n\u00e2ng niu.

\u0110\u1ecdc Ph\u00eda Nam bi\u00ean gi\u1edbi, t\u1ea5t nhi\u00ean ng\u01b0\u1eddi \u0111\u1ecdc s\u1ebd d\u1ec5 li\u00ean t\u01b0\u1edfng t\u1edbi Norwegian Wood c\u1ee7a Murakami, b\u1edfi t\u00ecnh ch\u1ea5t t\u1ef1 s\u1ef1 v\u00e0 thi\u1ebfu c\u00e1c chi ti\u1ebft si\u00eau th\u1ef1c c\u1ee7a c\u1ea3 hai cu\u1ed1n ti\u1ec3u thuy\u1ebft n\u00e0y. Nh\u01b0ng c\u00f2n c\u00f3 b\u00f3ng d\u00e1ng c\u1ee7a m\u1ed9t cu\u1ed1n ti\u1ec3u thuy\u1ebft Jazz kh\u00e1c, \u0111\u00f3 l\u00e0 The Great Gatsby. T\u00ecnh y\u00eau hay l\u00e0 n\u1ed7i \u00e1m \u1ea3nh? Hay l\u00e0 nh\u1eefng giai \u0111i\u1ec7u, nh\u1eefng h\u00ecnh \u1ea3nh m\u00e0 ng\u01b0\u1eddi ta v\u1eabn \u0111i t\u00ecm v\u00e0 s\u1ebd lu\u00f4n th\u1ea5y thi\u1ebfu, n\u1ebfu c\u00f3 \u0111\u01b0\u1ee3c n\u00f3 th\u00ec c\u0169ng ch\u1ec9 trong nh\u1eefng ph\u00fat gi\u00e2y ng\u1eafn ng\u1ee7i c\u1ee7a th\u1eddi gian. Hay n\u00f3i nh\u01b0 b\u1ea1n Nh\u1ecb Linh \u201cv\u1edbi Hajime m\u1ed1i quan h\u1ec7 v\u1edbi Shimamoto-san l\u00fac n\u00e0o c\u0169ng n\u1eb1m trong m\u1ed9t cu\u1ed9c \u0111\u1ed1i tho\u1ea1i kh\u00f4ng c\u00f3 k\u1ebft th\u00fac, n\u00f3 kh\u00f4ng ph\u1ea3i l\u00e0 m\u1ed9t quan h\u1ec7 v\u1edbi ng\u01b0\u1eddi kh\u00e1c, m\u00e0 l\u00e0 v\u1edbi ch\u00ednh m\u00ecnh\u201d. Ch\u1eb3ng ph\u1ea3i Gatsby c\u0169ng nh\u01b0 th\u1ebf sao?

\"B\u1ea1n s\u1ebd t\u00ecm th\u1ea5y m\u1ed9t t\u00ecnh y\u00eau \u0111\u1ec3 chia s\u1ebb
M\u1ed9t t\u00ecnh y\u00eau b\u1ea1n g\u1ecdi c\u1ee7a ri\u00eang m\u00ecnh
B\u1ea1n ch\u1ec9 c\u1ea7n nh\u1eafm m\u1eaft, n\u00e0ng s\u1ebd \u0111\u1ebfn b\u00ean
S\u1ebd kh\u00f4ng bao gi\u1edd b\u1ea1n c\u00f2n c\u00f4 \u0111\u01a1n\"


\u201cPretend you're happy when you're blue
It isn't very hard to do
And you'll find happiness without an end
Whenever you pretend

Remember anyone can dream
And nothing's bad as it may seem
The little things you haven't got
Could b
e a lot if you pretend

You'll find a love you can share
One you can call all your own
Just close your eyes, she'll be there
You'll never be alone

And if you sing this melody
You'll be pretending just like me
The world is mine, it can be yours, my friend
So why don't you pretend?\u201d

(Pretend- Nat King Cole)

Th\u1ef1c ra t\u00f4i c\u1ea3m gi\u00e1c b\u00e0i h\u00e1t n\u00e0y kh\u00f4ng ch\u1ec9 l\u00e0 theme c\u1ee7a truy\u1ec7n (c\u00f9ng v\u1edbi b\u00e0i h\u00e1t South of Border v\u00e0 b\u1ea3n nh\u1ea1c Star-Crossed Lovers- nh\u1eefng \u0111\u00f4i t\u00ecnh nh\u00e2n sinh ra d\u01b0\u1edbi nh\u1eefng ng\u00f4i sao kh\u00f4ng duy\u00ean ph\u1eadn) m\u00e0 n\u00f3 c\u00f2n th\u1ec3 hi\u1ec7n c\u1ea3 quan \u0111i\u1ec3m s\u00e1ng t\u00e1c c\u1ee7a Murakami.

Nh\u1eefng c\u00e2u chuy\u1ec7n h\u01b0 \u1ea3o, si\u00eau t\u01b0\u1edfng, l\u1eabn l\u1ed9n m\u01a1 v\u00e0 th\u1ef1c, hay nh\u1eefng k\u1ef7 ni\u1ec7m day d\u1ee9t, nh\u1eefng nh\u00e2n v\u1eadt ph\u1ee5 n\u1eef tho\u00e1ng qua nh\u01b0 \u1ea3o \u1ea3nh r\u1ed3i bi\u1ebfn m\u1ea5t, t\u1ea5t c\u1ea3 ch\u1ec9 nh\u01b0 nh\u1eefng melody m\u00e0 Murakami t\u1ea1o ra \u0111\u1ec3 ng\u01b0\u1eddi \u0111\u1ecdc \u201csing along\u201d, nh\u1eafm m\u1eaft v\u00e0 t\u01b0\u1edfng t\u01b0\u1ee3ng, dream v\u00e0 pretend. Ch\u1ec9 c\u00f3 v\u1eady, nh\u1ecf nh\u1eb9, y\u00ean t\u0129nh, kh\u00f4ng c\u1ea7u k\u1ef3, kh\u00f4ng n\u00f3i nhi\u1ec1u qu\u00e1 hay to qu\u00e1, nh\u01b0 m\u1ed9t ng\u01b0\u1eddi b\u1ea1n \u0111\u1ed3ng h\u00e0nh nh\u1eabn n\u1ea1i v\u00e0 th\u1ea5u hi\u1ec3u.

\"Remember anyone can dream. And nothing's bad as it may seem.... The world is mine, it can be yours, my friend. So why don't you pretend?\u201d
");To view this multimedia content, please enable Javascript.

Vài số liệu về ly hôn và ngoại tình

Về số tuyệt đối, số vụ ly hôn vào năm 2004 ở Việt Nam là khoảng 60.000, tính trên dân số là 0.75 trêm 1000 dân. So với con số trên thế giới: 4.95 ở Mỹ, 3.36 ở Nga, 0.79 ở Trung Quốc; 0.58 ở Thái Lan.

Tính theo số vụ hôn nhân trên số đám cưới, không tìm được số liệu trung bình cho cả Việt Nam. Nhưng số liệu cho thành phố Hồ Chí Minh, là có khoảng 40% các cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly hôn (tăng gấp đôi so với năm 1998). Nếu so sánh thì tỷ lệ này trung bình cho Mỹ là 49%, cao nhất trên thế giới, cho các nước phát triển khác cũng trong khoảng trên 40%. Như vậy là tuy thua kém nhiều về thu nhập nhưng tần suất ly hôn trong các gia đình Việt Nam ở đô thị lớn nhất nước cũng không kém gì ở các nước phát triển. Không có số liệu cho Hà Nội nhưng có thể dự đoán là chắc cũng trên 30% (3 đám cưới, 1 vụ ly hôn).

60% các vụ ly hôn ở Việt Nam do bạo lực gia đình; 5% do ngoại tình. Nhưng tỷ lệ ly hôn do ngoại tình trên thực tế hẳn cao hơn con số 5% này.

Ở Mỹ, ngoại tình là yếu tố được nhắc tới trong 65% các cuộc ly hôn. Nếu suy luận một cách tương đối, với tỷ lệ hai đám cưới, một vụ ly hôn ở Mỹ, thì tỷ lệ ngoại tình tối thiểu cũng sẽ chiếm 0.65*50%= 1/3 các cuộc hôn nhân. Trên thực tế, tỷ lệ này hẳn sẽ còn cao hơn, nếu tính tới các trường hợp chùi mép tốt hay tha thứ và hàn gắn. Chắc không thể dưới 50% cho các cuộc hôn nhân.

Lứa tuổi ly hôn phổ biến nhất là từ 25 tới 34. Sau đó là nhóm từ 45 tới 49.

Thực tế thế nào, rất khó biết vì điều tra hành vi ngoại tình một cách chính xác là việc rất khó khăn, nó phụ thuộc rất nhiều vào việc chọn mẫu, về cách thức tiến hành điều tra…Do đó các kết quả thống kê này có độ sai lệch rất lớn. Điều tra của Janus Report on Sexual Behavior cho thấy ở Mỹ có là 1/3 đàn ông và 1/4 phụ nữ đã từng có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Theo một điều tra sơ bộ thì tỷ lệ này với đàn ông ở Việt Nam là 66% (chắc cho khu vực đô thị? nguồn trên RFA dẫn lại từ VNN), không thấy nêu số liệu cho phụ nữ, chắc chắn là ít hơn nhưng tớ nghĩ cũng không thể dưới 30%. Nói chung cứ 3 cuộc hôn nhân thì ít nhất có 2 cuộc hôn nhân sẽ có dấu hiệu ngoại tình.

Từ những hiện tượng này có thể cho thấy ngoại tình là xu hướng của con người, là một yếu tố được quy định trong gene. Học thuyết Darwin cũng khẳng định việc này. Nhất là đối với đàn ông, việc ngoại tình nằm trong bản năng tăng khả năng di truyền nòi giống trong cuộc cạnh tranh tình dục với các cá thể khác.

Với phụ nữ, họ cũng có bản năng này. Đó là lý do phụ nữ bị hấp dẫn bởi những người đàn ông giỏi giang vì kết quả giao phối của họ (đứa trẻ) sẽ có khả năng survival tốt hơn trong xã hội. Nhưng mặt khác, vì phụ nữ chịu rủi ro hơn và phải chịu trách nhiệm chính trong việc nuôi con nên họ có xu hướng xây dựng một cuộc sống gia đình bền chặt để nuôi con cái. Như vậy về mặt bản năng sinh học, nếu căn cứ vào selfish genes thì cả đàn ông và phụ nữ đều có xu hướng ngoại tình tương đương, nhưng về mặt xã hội, đàn ông sẽ luôn thiên hướng ngoại tình cao hơn phụ nữ.

Từ cuckoo để chỉ việc ngoại tình trong tiếng Anh là nhắc tới loài chim cuckoo, chuyên môn thả trứng vào tổ của hàng xóm để hàng xóm nuôi con hộ. Theo một thống kê ở Anh thì có 1/10 những đứa trẻ sinh ra không phải con của người mà chúng gọi là bố.

Số liệu về ly hôn Việt Nam ở đây.

Một điều đáng chú ý còn là sự bất bình đẳng sau ly hôn. 76% phụ nữ không tái kết hôn sau ly hôn trong khi ở đàn ông chỉ có 23% là không tái kết hôn. Việc khó lấy chồng sau khi ly hôn chính là chi phí cơ hội rất lớn với phụ nữ, cộng thêm các áp lực khác của gia đình và xã hội và trách nhiệm chính, thậm chí là trách nhiệm hoàn toàn, trong việc nuôi con sau ly hôn khiến thiệt hại của phụ nữ do ly hôn lớn hơn nhiều so với nam giới. Thế nhưng dù thiệt hại là thế, đa số những người đứng tên xin ly hôn lại là phụ nữ, chứng tỏ trong các gia đình Việt Nam, phụ nữ thiệt thòi và kém hạnh phúc thế nào.

Đọc thêm bài báo trên Vnexpress về ông Hà Dũng, không vợ nhưng có 10 con với 9 bà.

So dear, do you still believe in marriage? img

Thursday, September 20, 2007

Entry for September 20, 2007

img


Người đàn ông màu xanh

Dạ Thảo Phương

Người đàn ông màu xanh
Mái tóc nâu màu xanh
Nụ cười mỏi mệt màu xanh
Đăm đắm nhìn em từ góc tối của ngôi nhà cổ

Bị cầm tù trong màu xanh của anh
Những con cá bơi loanh quanh, mải miết
Gọi đến rách giọng cá
Màu sắc thực của mình
Cả bể nước lạnh lùng trong suốt một màu xanh
Cả bể nước lạnh lùng sôi réo một màu xanh

Ngạt thở trong màu xanh của anh
Những cây Tử Y điên cuồng, tuyệt vọng
Căn phòng chìm trong lốc lớn
Tất cả đều đứng yên
Từ dưới những chiếc lá đang oằn mình trong hai màu xanh
Những bông hoa xanh không hình hài, không tiếng khóc
Ngằn ngặt toả hương

Chúng gọi tên anh
Gọi tên em
Tên những ảo tưởng màu xanh
Chúng hỏi đường trốn đến một nơi
Em không sao nghe rõ...

Bị cầm tù trong màu xanh của chính mình
Anh gọi em
Nhưng tiếng gọi của anh cũng màu xanh
Em sợ...


Picture: Painting, Joan Miro


Entry for September 20, 2007


Mưa như thế, bắt đầu từ lâu rồi
Trên mặt đất, những con bọ cứ bò lổm ngổm
Tôi không biết con người khao khát
điều gì trong cõi sống này?
Hình như điều thiện bắt đầu từ
Tình yêu phải không?

Điều thiện buồn tẻ vì nó nhạt nhẽo
Điều thiện tầm thường vì nó an toàn
Điều thiện tệ hại vì nó giết đi đam mê
Anh có sợ điều thiện không?
Chị có sợ điều thiện không?
Và em nữa?
Em có bao giờ ghê tởm điều thiện
bằng như điều ác?

Rồi mưa cùng với thời gian
sẽ xoá đi thôi, xoá hết
Xoá tất cả, rửa đi tất cả
Người ta sẽ rửa chúng ta đi
như rửa xương khi bốc mộ

Trong đêm không có ánh mặt trời
Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ
Tất cả xương nguời đều như thế:
Tất cả đều rời rạc, đen đúa, khô khan
Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ

Có cơn mưa nào?
Có đôi mắt nào nhoà ướt cho anh?

(Mưa Nhã Nam - Nguyễn Huy Thiệp, copy từ blog của Nguyệt Ánh)


Ta bước qua giữa đám dân chúng này và ta giữ cho mắt ta mở rộng trừng trừng: bọn chúng đã trở thành nhỏ bé và bọn chúng tiếp tục càng lúc càng trở thành nhỏ bé hơn: điều ấy bắt nguồn từ đạo lý về hạnh phúc và đức hạnh của bọn chúng.

…Ta thấy hễ còn có lòng thiện hảo tốt lành, thì còn có sự yếu đuối. Hễ còn có sự công chính, lòng lân mẫn xót thương, thì còn có sự yếu đuối. Bọn chúng tròn trịa, chính trực và thiện ích đối với nhau, như những hạt cát tròn trịa, chính thực và thiện ích đối với những hạt cát…Trong sự ngây ngô khờ khạo của bọn chúng, thật ra chúng chỉ muốn một điều duy nhất: muốn đừng ai xử ác với mình. Chính vì thế chúng mới sốt sắng với mỗi người và làm điều thiện cho mỗi người.

Nhưng đấy là sự hèn nhát: dẫu chúng gọi đó là “đức hạnh”…

Hỡi các người nhỏ bé, các ngươi càng lúc càng nhỏ bé thêm lên, các ngươi bị chia cắt phân xé thành từng mảnh vụn, các ngươi, những kẻ ưa thích sự an nhàn thoải mái! Rốt cuộc các ngươi sẽ chết. Sẽ chết vì những đức hạnh nhỏ bé, vì sự sơ hối nhỏ bé, vì sự khiêm nhẫn nhỏ bé của các ngươi…

Nhưng giờ của chúng đã đến! Và cả giờ của ta nữa cũng đến rồi! Từng giờ, từng phút bọn chúng càng trở nên nhỏ bé, nghèo nàn, vô bổ hơn- loài cỏ khốn khổ! đất đai khốn nạn!

(Zarathustra đã nói như thế, chương Về đức hạnh làm cho ti tiện nhỏ bé- Nietzsche, bản dịch của Trần Xuân Khiêm)

Entry for September 20, 2007

Phê bình phim- con đường không cánh cửa


09:13:07 05/09/2007

img

Một bộ phim khi ra đời, luôn trải qua một tiến trình dài và đầy truân chuyên ở giai đoạn tiền kỳ trước lần thành phẩm; người làm phim cũng đã phải chăm chút biết bao cho “đứa con tinh thần” ấy như người nông dân nhọc nhằn thương khó cùng cây lúa của mình, trên cánh đồng đợi mùa giáp hạt. Vì vậy, người phê bình phim khi đến với một bộ phim cũng nên lần lượt khám phá mọi thứ, trong tâm thế đồng hành và cộng cảm với người làm phim, theo các chuẩn mực nhất định về mặt nghề nghiệp.

Về điều này, có vẻ như đây vẫn còn là một hành trang nhiều phần “xa xỉ”, đến độ gần như không hề có trong sự chuẩn bị, nơi cuộc hành trình của những người phê bình phim ở Việt Nam hiện nay!
Thật vậy, lẽ ra phải “giải mã” một bộ phim bằng cách phân tích cấu trúc về mặt nghệ thuật theo đúng ngôn ngữ loại hình của nó, những người phê bình phim lại chọn nhiều phương thức “ông chẳng bà chuộc” chẳng có gì là “ăn nhập” mấy với điện ảnh. Để rồi cuối cùng, càng lúc những nhận xét ấy chỉ càng dẫn người đọc/ người xem/ người nghe rơi vào một “ma trận” nhì nhằng không lối ra; và xa rời dần hình thái gốc ban đầu của tác phẩm được chọn lựa khi định lượng.

img
Cảnh trong phim
“Áo lụa Hà Đông”
Phê bình phim theo các giác độ mang tính văn học là chính. Đó là cách hay gặp nhất, đặc biệt là ở các bộ phim được chuyển thể từ truyện ngắn hay tiểu thuyết, hoặc dựa theo các motif dân gian; những người phê bình phim dùng “sự hiểu biết” của mình trong các tác phẩm văn học gốc, rồi “áp” vào các xuất phẩm điện ảnh. Sự khuôn định này vô tình gây nhiễu loạn đến sai lệch, tạo nên cách nghĩ tiêu cực và ảnh hưởng trầm trọng đến việc thưởng thức một bộ phim, nơi công chúng. Còn nhớ, với phim Mê Thảo- Thời vang bóng (chuyển thể từ tác phẩm Chùa Đàn của cố nhà văn Nguyễn Tuân) sản xuất năm 2003, nữ đạo diễn Việt Linh đã phải hứng chịu rất nhiều “búa rìu dư luận” từ những người phê bình phim trong nước, khi phim vừa ra mắt. Dù không thể phủ nhận tình cảm của người đọc dành cho tác phẩm hay nhà văn mình hâm mộ, nhưng khi phải so đọ giữa sách với phim- vốn là một định dạng hòan tòan khác, sự so sánh này đã tạo nên một sự khập khiễng lộ rõ. Ngay chính người viết kịch bản của phim này là nhà biên kịch Phạm Thùy Nhân cũng đã lên tiếng chính thức, về việc sẵn sàng chịu trách nhiệm với công việc chuyển thể của mình. Chỉ với điều kiện duy nhất: phải và chỉ nên xét về mặt kết cấu của văn bản kịch bản, qua quan điểm riêng của người chuyển thể. Và khi thành phim, nó cũng đã trở nên là một tác phẩm hoàn toàn độc lập với tác phẩm gốc (tiểu thuyết ban đầu). Hay như một trận “cuồng phong” từ rất nhiều bài viết phê bình phim, trên khắp các mặt báo cả nước, chống đối mạnh mẽ về sự hoán chuyển motif dân gian trong phim Hồn Trương Ba, da hàng thịt (đạo diễn Nguyễn Quang Dũng) sản xuất năm 2006. Để chuyển tải được ý đồ cần thiết trong phim của mình, đạo diễn trẻ này đã “tung hê” mọi thứ bằng cách xáo trộn kết cấu quen thuộc của motif dân gian, nhào nặn thành hình ảnh khác trên phim. Nhập nhằng với chuyện phân biệt thể loại khi mải “bám đuổi” vỏ bọc câu chuyện cũ, những người phê bình phim đã thiếu tỉnh táo đến nỗi bỏ qua sự cách tân về mặt hình thức và thủ pháp trong phim (những lời thoại nháy về các “chiêu thức” trong quảng cáo, cách tạo hình vũ-điệu-mổ-thịt qua trường đoạn ở lò mổ của nhân vật chính...)- điều vốn dĩ cũng là một đặc trưng ngôn ngữ trong tác phẩm điện ảnh.

Phê bình phim theo kiểu nệ thá»±c, do chịu ảnh hưởng từ tÆ° duy hiện thá»±c phê phán khá Ä‘Æ¡n tuyến của má»™t thời, cÅ©ng là má»™t trong những cách vô tình “hủy diệt” phim nhanh nhất! NhÆ° trong buổi giao lÆ°u giữa người làm phim Mùa len trâu và khán giả má»›i đây, tại khán phòng IDECAF (chÆ°Æ¡ng trình “Phim Việt Nam được há»— trợ bởi Quỹ Fonds Sud”), nhạc sÆ° Nguyá»…n VÄ©nh Bảo đã có ý kiến phản ứng gay gắt vá»›i đạo diá»…n Nguyá»…n Võ Nghiêm Minh. Ông cho rằng nhân vật nam chính (Kìm) đã lạm dụng tiếng chá»­i thề khi xuất hiện trên phim, rồi cả việc nhân vật này đái vào ngôi miếu hoang thờ Thủy Thần để phản kháng vận mệnh... là những Ä‘iều không thể nào chấp được. Và càng không đúng vá»›i bối cảnh xã há»™i thời đó (khoảng những năm trÆ°á»›c Đệ nhị Thế chiến), về cách hành xá»­ của người Việt xÆ°a. Đạo diá»…n phim đã hồi đáp ngay, rằng khi mình viết kịch bản và khi tiến hành làm phim đều đã có tham khảo qua nhiều ý kiến của những người già cùng thời đó rồi. Và cÅ©ng được biết là có những Ä‘iều đó hiện hữu trong thá»±c tế thời bấy giờ. NhÆ°ng thá»±c ra cho dù những Ä‘iều ấy có hay là không, cÅ©ng đâu đã là quan trọng gì! Bởi má»™t lẽ Ä‘Æ¡n giản, người làm phim sá»­ dụng những chi tiết đó chỉ nhằm mục đích nhấn mạnh tính cách nhân vật hiện diện trong bối cảnh, đặc biệt là trong những hoàn cảnh “sống còn” nhÆ° thế! Và đây cÅ©ng chỉ là má»™t cuốn phim truyện vá»›i má»™t câu chuyện nhiều tính hÆ° cấu không hÆ¡n không kém. Nó không phải là má»™t cuốn phim tài liệu giáo khoa thÆ°, nên không cần thiết phải thật quá đúng vá»›i sá»± thật lịch sá»­ của vùng miền nÆ¡i đó. Trong bài phê bình về bá»™ phim Áo lụa Hà Đông, nhà phê bình văn học Nguyá»…n Thanh cÅ©ng đã có chiều hÆ°á»›ng quá “sát phạt” bằng việc bắt bẻ các chi tiết thuá»™c về bối cảnh lịch sá»­ của phim. Có thể, phim còn nhiều lá»—i sai sót về thời gian lẫn không gian của cÃ
¢u chuyện phim trong hoàn cảnh lịch sá»­ (sá»± xuất hiện của chiếc áo dài ở đâu và khi nào? chuyến Ä‘i “Nam tiến” năm 1954 của nhân vật đúng vá»›i hành trình thá»±c tế hay không? cuá»™c nổi dậy của nông dân có hợp lý ở nÆ¡i xuất phát hay chÆ°a?...). NhÆ°ng nhÆ° đã nói, đây dù sao Ä‘i nữa cÅ©ng chỉ là má»™t bá»™ phim hÆ° cấu, lại càng không phải là má»™t phim tiểu sá»­ về má»™t nhân vật có thật hay nổi tiếng trong lịch sá»­. Vậy nên những chi tiết mà người phê bình phim này vạch ra theo cách “chỉ mặt đặt tên” để phân định đúng sai, nói cho cùng cÅ©ng chỉ là cái nhìn duy ý chí.

img
Cảnh trong phim
“Mùa len trâu”
Phê bình phim nặng về cảm tính, rất dễ dẫn những người phê bình đến tình trạng áp đặt những nhận định chủ quan. Như phim Dòng máu anh hùng (đạo diễn Charlie Trí Nguyễn) dù được những người làm phim xác định thể loại khá rõ ràng, lại được đầu tư rất chuẩn về mặt kỹ thuật (đủ tiêu chuẩn quốc tế về hình ảnh, âm thanh...)- hãng Weinsteins của Mỹ thương lượng mua lại để phát hành tại Mỹ và Anh quốc; vẫn nhận phải những lời phê bình phiến diện và đầy ác ý: phim “giống phim này phim nọ”, phim “thiếu tính này tính nọ”! Không nhận chân ra được quan niệm lẫn phương cách chuyên nghiệp ấy của người làm phim, chỉ bởi những người phê bình phim đã luôn tự cho mình quyền phán xét trên/ trước “như Thánh phán”! Cũng vậy, phim Sài Gòn nhật thực (đạo diễn Othello Khánh) khi vừa công chiếu đã bị công kích dữ dội, với “tội danh” là làm sai lệch văn hóa dân tộc! Theo nhà biên kịch Đoàn Tuấn: “Nhìn chung những lời chê này đều có điểm giống nhau là các tác giả (nhà báo) đều lấy mình hoặc những hiểu biết của mình làm chuẩn để rồi “cân, đong, đo, đếm” tại sao những vấn đề hay cách giải quyết của các nhà làm phim lại không giống mình! Từ đó quy kết cho tác giả bộ phim bao nhiêu là thứ tội. Nguy hiểm nhất, cũng không thể không báo động là cách phê bình phim mang nặng tính qui chụp và suy diễn. Nó gây ra nguy cơ về việc không những “giết chết” phim mà còn cả người làm phim! Bài viết 2 kỳ của Tiến sỹ Trần Trọng Đăng Đàn về phim Áo lụa Hà Đông đã khiến công chúng cả nước sửng sốt về sự quá khích đến cực đoan của mình. Ngoài việc xem phim chưa kỹ, dẫn chứng sai lầm thì bài viết còn tự bộc lộ cho người đọc thấy sự hời hợt và vô cùng ấu trĩ về cách hiểu ngôn ngữ điện ảnh của người viết. Tuy thế, cách lên án bộ phim và người làm phim với những “tội danh trên trời” bằng lời lẽ đanh thép của một quan tòa trong phiên xử ấy, cũng gây nên một “hiệu quả” sút giảm doanh thu phòng vé trong thời điểm phim này đang công chiếu! Hơn thế nữa, bài phê bình này còn tạo ra một “hiệu ứng” hoang mang cho những đạo diễn người Việt ở nước ngoài, về cảm giác thiếu nhất quán từ các chính sách đoàn kết dân tộc của nhà nước Việt Nam.
Vậy cho nên, điều quan trọng hàng đầu vẫn phải là một cái nhìn mở từ những người phê bình phim- bằng chính hệ thống lý luận từ học thuật điện ảnh của mình. Chỉ có như vậy, nhà phê bình mới trở thành nhịp cầu nối hữu hiệu giữa bộ phim và khán giả; cũng như là người bạn đồng hành thực sự với người làm phim (đạo diễn).

Châu Quang Phước