Thursday, August 02, 2007

Sử Mông Cổ

Bài này tổng quan tương đối đầy đủ về lịch sử Mông Cổ (dạo này tớ cũng hơi quan tâm tới lịch sử các nước “tứ di” của Trung Quốc như Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản).

VÍ dụ các chi tiết sau:

“Từ thế kỷ thứ I sau Công Nguyên đến thế kỷ thứ IV, người Mãn Châu Tiên Ty (Sien Pi) kiểm soát miền đông xứ Mạc Bắc. Miền tây là đất của A Đề Lai (Attalia). Ông chúa Hung Nô này, có lẽ là người Đột Quyết, mang quân sang tận Đông Âu, chiếm đóng đồng bằng Pannonie, nay gọi là Hung Gia Lợi (Hongrie). Năm 441, A Đề Lai xâm lăng đế quốc Đông La Mã (empire byzantin), tàn phá bán đảo Ba Nhĩ Cán (péninsule des Balkans), năm 451 vượt sông Rhin đánh vào Pháp nhưng bị thua liên quân La Mã, Burgondes, Francs, Visigoths trên những cánh đồng Catalauniques (ở miền Champagne bây giờ). Năm sau, ông định đánh thành La Mã (Rome), nhưng đã bị giáo hoàng Leon le Grand thuyết phục bằng việc nộp cống phẩm. Ông chúa Hung Nô bằng lòng nhận cống phẩm và rút quân, quay về Pannonie và năm 453 chết thình lình.”

Ngườn Hun di cư từ Mông Cổ sang châu Âu là một quá trình hàng trăm năm mới tới Atila chứ không phải Atila vừa làm vua Hung Nô ở Mông Cổ lại vừa sang tận châu Âu chinh phạt như thế. Lúc Atila làm vua người Hun (chưa được chứng minh rõ ràng có phải cũng chính là người Hung Nô hay không) thì người Hun đã cư trú ở Hungary một thời gian lâu rồi. Nhưng ông này nói đúng ý là Hung Nô thuộc về giống Thổ chứ không phải giống Mông Cổ, mà đúng ra thì phải gọi là tiền- Thổ (proto-Turkish) và tiền- Mông Cổ (proto-Mongol).


“Năm 960, nhà Tống thống nhất Trung Nguyên. Nhưng chẳng được bao lâu, những rợ chung quanh mạnh lên, áp chế cả thiên tử. Thuở ấy, các nước rợ mạnh đáng kể là: Đại Hạ, Liêu (có nghĩa là Sắt), Kim (có nghĩa là Vàng) và Tây Liêu.

….
Phía tây khu vực của người Mông Cổ là nước Tây Liêu, địa bàn là khu Tân Cương của Trung Hoa và nước Kazakhstan bây giờ, kinh đô là Hổ Tư Oát Nhĩ Đoá (Husiwoerduo). Cư dân ở đây là người Duy Ngô Nhĩ, một ngành của giống Đột Quyết, theo đạo Hồi.”


Chi tiết này cũng không chính xác. Nước Tây Liêu được thành lập sau khi nước Liêu của người Khiết Đan bị nước Kim của người Nữ Chân diệt, quý tộc Khiết Đan mang 10 vạn quân dân tiến sang Trung Á, lập ra nước Tây Liêu đóng đô ở Kyrgyzstan. Cư dân nước này gồm nhiều chủng tộc, đông nhất có thể là người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) cùng các dân tộc nói tiếng Thổ khác (như người Naiman) nhưng lãnh đạo thì lại là người Khiết Đan (thuộc nhóm Tiên Ty- Mãn Châu). Nhưng tới giai đoạn người Mông Cổ thôn tính Tây Liêu thì người Naiman (một bộ lạc Mông Cổ nói tiếng Thổ không chịu đầu hàng Thành Cát Tư Hãn mà chạy sang Trung Á nương nhờ Tây Liêu) đã lật đổ ách thống trị của quý tộc Khiết Đan để làm chủ Tây Liêu rồi.


Còn vài chi tiết nho nhỏ khác. Nhưng nói chung bài này cũng có ích, cho một cái nhìn tổng quan và khá chính xác về lịch sử Mông Cổ trước và sau Hốt Tất Liệt, dù cách dùng từ hơi cũ, hơi kiểu giản sử theo phong cách Nguyễn Hiến Lê.

No comments: