Get this widget | | | Track details | | | \t\teSnips Social DNA ");To view this multimedia content, please enable Javascript.
Đọc bài này của bác Quốc buồn cười thế chứ: “Hiện nay, tình dục vẫn là cấm kỵ với giới trẻ, nên họ tìm không gian ảo như blog để thỏa mãn.” Nói như bác Quốc thế này thì blog chắc chả khác gì chợ tình Thanh Xuân, đúng hơn là chả khác gì một thứ hàng hóa thay thế cho chợ tình Thanh Xuân. Tuy nhiên, cũng có thể mở rộng vấn đề từ câu này của bác Quốc. Không phải chỉ tình dục là cấm kỵ với giới trẻ (mà thật ra điều này từ rất lâu đã không còn đúng lắm, nhất là với các thanh niên ở đô thị) mà có nhiều thứ khác ở xã hội Việt Nam mới thực sự là cấm kỵ với giới trẻ (và cả giới không trẻ), nên blog phát triển như là một hình thức diễn đạt-giao lưu thay thế, vượt ra các ràng buộc gò bó và xơ cứng của xã hội hiện nay. Nói chung, mấy bác già già như bác Quốc đã không hiểu giới trẻ lắm và cũng không phải người nghiên cứu về họ thì cũng không nên phát biểu (dựa trên những định kiến sẵn có) của mình về giới trẻ. Đến mình giờ cũng chẳng dám phát biểu khái quát điều gì về những người kém mình 10 tuổi nữa là các bác già U60.
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy tin giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam được trao cho Đoàn Minh Phượng với tiểu thuyết “Và khi tro bụi” và Hữu Việt với tập thơ dịch “Khúc hát trái tim” hầu như bị bỏ qua trên báo chí. Báo Tuổi Trẻ đưa tin với năm sáu dòng ngắn ngủi. Báo Thanh Niên và Lao Động thậm chí còn chưa đưa tin trong mục Văn hóa. Vnexpress đưa tin dài hơn Tuổi Trẻ nhưng cũng không bình luận gì. Chỉ duy nhất có VNN là có bài phỏng vấn Hữu Thỉnh, chủ tịch Hội nhà văn và Thể thao văn hóa có bài bình luận về sự kiện này (đăng lại trên phongdiep.net). Ấy thế mà như tôi hiểu, giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam là giải quan trọng nhất về văn học. Trước kia, giải này từng được trao cho các tác phẩm đánh dấu những biến chuyển của văn học Việt Nam như Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma…Nếu so với sự kiện ầm ĩ xung quanh giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội mà các báo cũng tốn không ít giấy mực thì giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam lần này yên ắng tới không ngờ. Chẳng nhẽ phải có scandal, có dè bỉu và và cạnh khóe (như Lê Thiếu Nhơn với Vàng Anh) thì báo chí mới “hăng say” vào cuộc? Khai thác tối đa các mâu thuẫn vẫn là thế mạnh của báo chí và của cách mạng, và do đó, tất nhiên là của báo chí cách mạng. Trong khi đó, các sự kiện văn hóa như hoa hậu thể thao 2007, hoa hậu châu Á 2008, hoa hậu Trái đất 2007 hay tin bài về Britney Spears trả tiền để không phải ra toà, Natalie Portman và cảnh quay nóng, Orlando Bloom và Miranda Kerr: Cặp đôi mới?… thì báo nào cũng đưa trong mục “Văn hóa” của mình. Ở các nước phát triển, các giải thưởng văn học quốc gia như National Book Award của Mỹ, Booker của Anh…nhận được sự quan tâm rất lớn của dư luận. Báo chí liên tục đưa tin, bài, bình luận, điểm sách… về các cuốn sách được vào sơ khảo, chung khảo các giải thưởng này trong suốt cả quá trình. Đó là các sự kiện văn hóa quan trọng, đánh giá những thành tựu đạt được trong nền văn học đương đại của đất nước đó. Ngay từ một cuốn sách được công bố đoạt giải, số lượng phát hành cuốn sách đó lập tức tăng vọt (tất nhiên là vẫn không so sánh được với các cuốn best-seller như tiểu thuyết mới của Stephen King nhưng sẽ là best-seller của dòng sách văn học). Ngay ở Trung Quốc, bên cạnh các giải thưởng văn học quốc gia thì gần đây cũng có cuộc bình chọn trên mạng các nhà văn Trung Quốc đương đại với rất nhiều người tham gia. Còn ở Việt Nam? Các phóng viên, biên tập viên văn hóa còn bận rộn đưa tin về hoa hậu Thể thao, hay dịch tin về vụ scandal mới nhất của Britney Spears. (Nói thế thì cũng không công bằng lắm, có một số tờ báo chuyên về văn hóa cũng chịu khó đưa tin về các giải thưởng văn học ở nước ngoài lắm, vả cả các giai thoại về đời tư của nhiều nhà văn mà tác phẩm chưa bao giờ được dịch ra tiếng Việt). Thế còn các nhà phê bình văn học? Tại sao chúng ta không mấy khi thấy họ lên tiếng về các cuốn sách được giải thưởng văn học, hay các cuốn sách được dư luận quan tâm trong thời gian qua? Có thể do họ còn bận rộn điểm sách theo đơn đặt hàng của các công ty sách (nói cách khác là làm công việc của nhân viên marketing), như có lần họ tâm sự trên báo. Hoặc cũng có thể, như một nhà “phê bình văn học của tôi” từng nói (ngụ ý) họ không mấy quan tâm tới các nhà văn nội địa. Dù gì thì gì, phê bình (một cách thực sự) về Đoàn Minh Phượng, Nguyễn Ngọc Tư hay Thuận cũng không “sang trọng” và an toàn như khi viết về Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn hay Quách Kính Minh (và Dan Brown!). Thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc được trên báo các bài ca thán về “văn hóa đọc” của người trẻ. Rằng thanh thiếu niên bây giờ lười đọc quá, hay nếu đọc thì chỉ đọc truyện tranh: theo một khảo sát của báo Lao động thì một người Việt trung bình đọc 2,8 cuốn sách mỗi năm trong đó 60% là truyện tranh, nhưng tôi nghĩ có khi con số này cũng là cao quá. Nhiều người lên tiếng báo động quá đến nỗi các bạn Hội đồng Anh phải tổ chức hội thảo, mời cả chuyên gia về văn hóa đọc sang để giới thiệu điểm cơ bản nhất về đọc sách và phê bình sách cho độc giả và nhà phê bình Việt Nam. Nhưng cũng chỉ được vài bữa thì bị các cơ quan hữu trách về văn hóa cho dừng lại, chắc vì sợ văn hóa đọc người Việt phát triển lệch lạc theo kinh tế thị trường không định hướng (XHCN)? Văn hóa đọc của người Việt Nam cũng có thể có những vấn đề. Nhưng tôi nghĩ nếu như chính các nhà phê bình văn học, các biên tập viên- phóng viên văn hóa của các tờ báo lớn mà cũng lười đọc hoặc/và lười viết nữa thì việc trách nhân dân lười đọc, hay không có văn hóa đọc có phải là công bằng không? PS: Nhưng lại nghĩ lại, có khi không phải các nhà phê bình hay các nhà văn thờ ơ với các tác phẩm đoạt giải thưởng, mà là họ không tin tưởng vào các giải thưởng với rất nhiều bê bối trong quá khứ này, cũng không tin tưởng vào cái hội nhà văn hơi giống cái hội ngồi chiếu trên, sắn thủ lợn trong sân đình chứ không phải một hội nghề nghiệp đúng nghĩa. Dù thế nào, sự thờ ơ (một cách ảm đạm) này cũng phản ánh sự thiếu lành mạnh (và một cái gì đó cynical) trong đời sống văn học Việt Nam.
Còn ai với ai Trịnh Công Sơn Không có em còn tôi với ai Không có em lạnh giá đường vui Không có em ngồi đứng nơi này Không có em còn ai có ai
Em đã đi chìm khuất đã theo Em đã đi ngọn gió quạnh hiu Không có em đường cũ tiêu điều Em đã xa lìa trong nỗi đau Em đi biền biệt muôn trùng quá Từng cơn gió và từng cơn gió Em đi gió lạnh đến xa bờ Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ À a ơi... i a Không có em đường xa quá xa Em đã thôi cười giữa chiều mưa Em đã đi đời có đâu ngờ Mang trái tim mùa xuân héo khô Không có em buồn vui với ai Không có em lụa gấm nhạt phai Ai đã chia người mãi xa người Ai giết đi tình đang lứa đôi. yfla.wrap("This multimedia content requires Flash version 9 and above.", "Upgrade Now.", "http:\/\/www.adobe.com\/shockwave\/download\/download.cgi?P1_Prod_Version=ShockwaveFlash", " | Get this widget | | | Track details | | | \t\teSnips Social DNA ");To view this multimedia content, please enable Javascript.
1. Hội nhà văn VN trao 2 giải thưởng văn học 2007
"Tiểu thuyết "Và khi tro bụi" của nhà văn Việt kiều Đoàn Minh Phượng cùng tập thơ "Khúc hát trái tim" (nguyên tác Heart Songs) của nhà thơ thần đồng Mỹ Mattie J.T.Stepanek do Hữu Việt dịch được Hội nhà văn VN trao giải thưởng năm 2007." Chúc mừng chị Đoàn Minh Phượng đã có được giải thưởng quan trọng nhất của văn học Việt Nam trong năm. Tiểu thuyết của chị đoạt giải là rất xứng đáng! 2. Ba bài viết giới thiệu về Nobel Kinh tế năm nay bằng tiếng Việt. Bài của GS. Trần Hữu Dũng Bài của nhà báo Nguyễn Vạn Phú, báo Thời báo kinh tế Sài Gòn. Bài của Dự Trần & Khoa Trần, nhóm Minh Biện (có bàn tới hiện tượng Vàng Anh) 3. Trên các blog có khá nhiều bài hay Hai bài của bác Nghe chửa. Bác Nghe chửa bình luận đọc vừa hài hước, vừa thâm thúy. Đêm xuân một khắc ngàn vàng và Sức sống văn hóa Việt? Bài của bác Dong A bàn về "diễn biến hòa bình" và việc "giải Mỹ hóa". Bác Dong A là người có tư tưởng (theo tôi nghĩ) hơi bảo thủ nhưng rất đáng nể về tri thức, và sự kỹ lưỡng khi viết bài. Vấn đề bác đặt ra trong bài này cũng hay: đó là làm thế nào để "giải Mỹ hóa"? Nhưng có những câu hỏi khác cũng nên đặt ra là có cần thiết phải giải Mỹ hóa như một chính sách của nhà nước không? Nếu có thì sự "giải Mỹ hóa" đó là trên cơ sở chính trị hay văn hóa? Diễn biến hòa bình. 4. AP và hàng loạt các báo nước ngoài đưa tin về vụ Thùy Linh. Bài của AP có nhiều nhận định rất sai lầm, và chỉ đề nhằm cũng cố định kiến có sẵn của phóng viên AP về xã hội Việt Nam (và các xã hội chưa Âu hóa triệt để khác). Nhưng blog tớ đã có hơi nhiều bài về Thùy Linh rồi (tới mức BBC Vietnamese để link blog mình là blog có nhiều bài liên quan tới vụ Vàng Anh- khiến một số bạn tưởng vào xem có link phim hay có chuyện "thâm cung bí sử" phải thất vọng) nên tớ cũng không muốn ném đá bài của AP (như bạn T khuyên) nữa.
Quanh chuyện công an khởi tố 4 anh chị đưa video 16 phút của Thùy Linh lên mạng và đang điều tra hơn chục người liên quan. Thử nghĩ về khía cạnh pháp luật của vụ việc. Công an khởi tố 4 sinh viên với tội danh truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, như vậy theo quan điểm của Công an thì video tự quay của Hoàng Thùy Linh và Vũ Hoàng Việt (suýt đánh nhầm tên mình – thế nào mà tên hai bạn này đều có hai chữ giống mình) là văn hóa phẩm đồi trụy. Trong Bộ Luật hình sự có quy định tội sản xuất, tàng trữ và lưu truyền văn hóa phẩm đồi trụy. Và nếu như theo quan điểm của Công An Hà Nội rằng video Thùy Linh là văn hóa phẩm đồi trụy thì những người sản xuất băng này (Thùy Linh và Hoàng Việt) đều phạm tội cả. Chưa kể cả hai (nhất là Hoàng Việt) còn phạm tôi tàng trữ văn hóa phẩm đồi trụy (trên máy tính và trên điện thoại). Vậy việc khởi tố 4 sinh viên này và bắt giữ hơn chục người, trong khi lại bỏ qua Thùy Linh và Hoàng Việt mà không có bất kỳ lý do gì được đưa ra có phải là hợp lý không? Chỉ có một khả năng duy nhất cho phép khởi tố 4 sinh viên kia mà không khởi tố Thùy Linh/ Hoàng Việt và những người liên quan khác (Nguyễn Xuân Hiển, Tạ Quang Phú…) đó là khi phim nằm trong tay Thùy Linh, Hoàng Việt, Xuân Hiển, Quang Phú thì nó chưa phải là văn hóa phẩm đồi trụy nhưng khi nó lên trên Net thì nó mới thành đồi trụy. Nhưng lý do đó cũng thật ngớ ngẩn. Để không khởi tố Hoàng Việt/Thùy Linh (cũng như trước kia không khởi tố Thanh Tòng/Yến Vy) về tội sản xuất tàng trữ văn hóa phẩm đồi trụy thì phải coi video Thùy Linh không phải là văn hóa phẩm đồi trụy và chỉ là sản phẩm có tính riêng tư. Nhưng nếu vậy thì việc các sinh viên kia đưa một sản phẩm có tính riêng tư của người khác lên trên Internet mà không có sự đồng ý của chủ nhân sẽ chỉ là một hành động xâm phạm quyền riêng tư người khác chứ không phạm tội hình sự. Thùy Linh/Hoàng Việt có thể kiện họ theo Luật dân sự chứ công an không có quyền bắt họ như là các tội phạm. Như vậy, đứng ở góc độ nào thì việc công an Hà Nội khởi tố vụ án 4 người kia cũng là một việc làm đầy mâu thuẫn. Để xem sắp tới họ sẽ xử lý mâu thuẫn này ra sao?
Trong dòng sông của Heraclitus Wisława Szymborska Người dịch: Thái Linh
Trong dòng sông của Heraclitus Con cá bắt cá con cá cắt con cá bằng một con cá sắc con cá xây con cá, con cá ở trong con cá con cá chạy trốn khỏi con cá bị bao vây.
Trong dòng sông của Heraclitus con cá yêu con cá Đôi mắt em- nó nói- sáng như cá trên trời Cùng em đến vùng biển chung tôi muốn được bơi ôi, em xinh đẹp nhất trong đàn cá.
Trong dòng sông của Heraclitus con cá nghĩ ra một con cá siêu cá con cá quỳ gối trước con cá, con cá hát cho con cá nghe cầu xin con cá để được bơi thật nhẹ.
Trong dòng sông của Heraclitus tôi con cá độc đáo, tôi con cá khác biệt (dẫu chỉ khác với cá cây hay cá đá) Đôi khi tôi viết ra những con cá nhỏ với lớp vẩy bạc long lanh, ngắn đến nỗi người ta cứ ngỡ đó chỉ là bóng đêm đang bối rối chớp mi.
Nguyên tác ở đây: http://www.poezja.org/index.php?akcja=wierszeznanych&ude=60
Ngày 22/10 vừa rồi, tổng thống Pháp Sarkozy yêu cầu các trường học ở Pháp đọc cho học sinh bức thư gửi cho gia đình của Guy Môquet, liệt sĩ Cộng sản 17 tuổi, bị phát xít Đức xử tử trong thế chiến thứ Hai. Quyết định này gây ra các phản ứng trái ngược nhau của dư luận. Về mặt cá nhân, tôi thấy đây là một quyết định vô lý. Nó phản ánh tâm lý bất ổn của nước Pháp trước lối sống “thiếu lý tưởng” của thế hệ trẻ. Hẳn nhiều người cũng biết các vụ lộn xộn ở khu ngoại ô và trong trường đại học ở nước Pháp trong vài năm qua. Sự bất bình của sinh viên với các chính sách giáo dục ở Pháp khiến nhiều người đã ví nước Pháp thời điểm hiện nay với nước Pháp năm 1968, khi phong trào phản kháng của sinh viên dữ dội nhất trong lịch sử nước này. Với việc yêu cầu các trường học đọc thư của Môquet, hẳn Sarkozy muốn khơi gợi trong thế hệ trẻ Pháp tinh thần yêu nước, và tinh thần trách nhiệm với đất nước. Cũng có những người cho rằng vị Tổng thống cánh hữu Sarkozy muốn lợi dụng hình ảnh một liệt sĩ cộng sản cho con đường chính trị của mình, bằng cách cải thiện hình ảnh mình trong mắt cánh tả và thanh niên Pháp. Nhưng dù động cơ thế nào thì việc áp dụng một biện pháp lỗi thời như thế trong trường học bằng một sắc lệnh của Tổng thống phải chăng là một sự can thiệp quá đáng và không cần thiết?. Sự hy sinh của người yêu nước Môquet là một điều thực sự có ý nghĩa với nước Pháp, nhưng bắt tất cả các trường phải đọc bức thư anh gửi riêng cho gia đình anh, bắt tất cả các học sinh phải nghe bức thư này của anh thì tôi nghĩ không phải là một việc hay. Từ việc nước Pháp, thử nghĩ tới một kịch bản tương tự, khi Chính phủ Việt Nam yêu cầu tất cả các trường phổ thông phải đọc một đoạn nào đó trong Nhật ký liệt sỹ Đặng Thùy Trâm cho học sinh nghe trong ngày khai giảng. Liệu việc đó có nên không? Tôi nghĩ là không nên. Thế hệ trẻ cần tiếp xúc với những ký ức của chiến tranh, những tấm gương của các liệt sĩ và những người yêu nước một cách tự nguyện, chứ không phải bị ép buộc. Tôi vẫn nghĩ là khi người ta sinh ra và lớn lên ở một mảnh đất nào đó thì lòng yêu nước cũng là một cái gì đó tự nhiên, và cái nhu cầu tự tìm hiểu bản thân mình và cộng đồng mình đang sống sẽ khiến người ta muốn biết hơn về quá khứ của dân tộc mình. Hiện tượng nhật ký Đặng Thùy Trâm trở thành best-seller lớn nhất từ trước tới nay cũng cho thấy điều này. Biến nó thành một cái gì đó mang tính nghĩa vụ, hay một công cụ tuyên truyền sẽ là điều gì đó hạ thấp ý nghĩa sự hy sinh của các liệt sỹ. Trở lại với Guy Môquet, từ blog bác Dong A (và link tới báo Diễn Đàn), tôi được biết trong số 26 người bị phát xít Đức xử bắn cùng với Guy Môquet có một người Việt Nam có tên là Huỳnh Khương An. Cũng như Guy Môquet, Huỳnh Khương An là đảng viên đảng Cộng sản Pháp và là một người yêu nước. Nhưng bất hạnh hơn Guy Môquet, Huỳnh Khương An không được chết cho Tổ quốc của mình. Huỳnh Khương An chết vì anh là cộng sản và chống phát xít. Nhưng tôi tin là cũng như hầu hết những người cộng sản Việt Nam giai đoạn đó, lòng yêu nước đã đưa anh tới với chủ nghĩa cộng sản. Cũng như Guy Môquet, trước khi chết, anh có gửi bức thư tới những người thân yêu của mình. Nội dung bức thư anh gửi cho vợ mình như sau: « Hãy can đảm lên, em yêu của anh. Đây chắc là lần cuối cùng anh viết cho em. Ngày hôm nay, anh sẽ lìa đời. Anh và các bạn, khoảng hai mươi đồng chí, đang bị tạm giam trong một gian nhà trống, sẵn sàng hy sinh trong tư thế dũng cảm và nhân cách. Em sẽ không hổ thẹn vì anh. Em sẽ cần rất nhiều dũng cảm để sống, nhiều hơn là anh cần để chết. Nhưng nhất định em phải sống. Bởi vì con, đứa con trai bé nhỏ của chúng ta ; khi nào gặp lại con, em hãy hôn nó cho anh, thật chặt. Từ nay, em phải sống bằng kỉ niệm, những kỉ niệm tươi đẹp của chúng ta, năm năm trời hạnh phúc ta đã sống với nhau. Vĩnh biệt, em yêu ».
Còn đây là bức thư của Guy Môchet (bản dịch tiếng Anh): “My darling Mummy, my adored brother, my much loved Daddy, I am going to die! What I ask of you, especially you Mummy, is to be brave. I am, and I want to be, as brave as all those who have gone before me. Of course, I would have preferred to live. But what I wish with all my heart is that my death serves a purpose. I didn’t have time to embrace Jean. I embraced my two brothers Roger and Rino. As for my real brother, I cannot embrace him, alas! I hope all my clothes will be sent back to you. They might be of use to Serge, I trust he will be proud to wear them one day. To you, my Daddy to whom I have given many worries, as well as to my Mummy, I say goodbye for the last time. Know that I did my best to follow the path that you laid out for me. A last adieu to all my friends, to my brother whom I love very much. May he study hard to become a man later on. Seventeen and a half years, my life has been short, I have no regrets, if only that of leaving you all. I am going to die with Tintin, Michels. Mummy, what I ask you, what I want you to promise me, is to be brave and to overcome your sorrow. I cannot put any more. I am leaving you all, Mummy, Serge, Daddy, I embrace you with all my child’s heart. Be brave! Your Guy who loves you.”
Đôi bờ Quang Dũng
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai ? Sông xa từng lớp lớp mưa dài Mắt kia em có sầu cô quạnh Khi chớm thu về một sớm mai
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự Kinh thành em có nhớ ta chăng ? Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến Hiu hắt chiều sông lạnh đất Tề
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa Đêm nay sông Đáy lạnh đôi bờ Thoáng hiện em về trong đáy cốc Nói cười như chuyện một đêm mơ
Xa quá rồi em người mỗi ngả Đôi bờ đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi Dòng lệ thơ ngây có dạt dào ?
Hãy thừa nhận đi, bạn ghét nghệ thuật đương đại! Bài viết này cực đoan khi cho nghệ thuật đương đại là đồ rởm. Vietimes dịch khá trôi chảy nhưng lại không ghi tên tác giả và tên nguồn là một điều khó chấp nhận. Sau chiến dịch tấn công các nhà xuất bản và biên tập viên, Vietimes đang mở chiến dịch đòi đóng cửa tất cả các trung tâm môi giới hôn nhân. Tuy nhiên, chỉ kêu gọi như thế thì có ích gì, cái chính là phải đưa ra giải pháp vì nếu cấm các trung tâm môi giới thì sẽ có các trung tâm môi giới chui thôi. Giải pháp nào để ngăn chặn blog đen, blog bẩn? Bài xã luận này của VNN rất chuối, câu cú lủng củng và còn sai về ngữ pháp (xã luận của một tờ báo lớn mà như thế thì hơi tệ). Xã luận này nêu lập trường của VNN về việc “nhà báo viết blog”: “Bạn đọc Báo Thanh niên còn phản ánh một số nhà báo đã biến blog thành một công cụ báo chí (viết bài bình luận chính trị, xuyên tạc tùy tiện về công việc của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, về đời tư của các chính khách, nghệ sĩ, doanh nhân và công dân, đồng thời tìm cách quảng bá, tập hợp, thu hút bạn đọc với số lượng lớn).” Và đoạn dưới đòi các nhà báo, nhà văn viết blog phải công khai tên: “Phải chăng để công khai nhận trách nhiệm, trước hết, các nhà báo, nhà văn, những người được quần chúng mến mộ làm blog nên công khai danh tính như các blog của: Dương Trung Quốc, Nguyễn Trọng Tạo, Kim Hạnh, Vũ Mạnh Cường; Nguyễn Thế Thịnh…” Nếu tớ không lầm thì có không ít phóng viên VNN viết blog và nhiều người cũng không để tên mình trong profile (như hầu hết các blogger khác, công nhận mình ngoan, không phải nhà báo mà cũng công khai danh tính). Thêm nữa, nếu chính xác thì blog của anh Vũ Mạnh Cường có tên là VMC và của ông Dương Trung Quốc có tên là Quốc Xưa Nay, tức là nó không khác gì blog của Huy Đức lấy tên là Osin hay của Đức Hiển với tên Bố Cu Hưng mà Thanh Niên (và giờ là VNN) ngầm phê phán.
Với lại việc các nhà báo biến blog thành công cụ báo chí thì có làm sao??? Chẳng nhẽ là nhà báo thì không có quyền được viết bài trên blog của mình như là một bài báo? Còn việc VNN kết luận một số nhà báo nào đó viết “xuyên tạc” thì cần có dẫn chứng cụ thể vì nói như thế cũng rất có thể là vu khống. Nói chung về tờ VNN này tớ thấy rất lộn xộn: các tư tưởng cấp tiến, bảo thủ chen chúc nhau, chẳng biết tờ này có định hướng thực sự là gì? Làm báo nghiêm túc hay lá cải, cấp tiến hay phản cấp tiến? Chẳng hạn hôm trước báo này vừa đăng nguyên xi bài của VTV với bài của Đức Hiển kêu gọi đùm bọc thương yêu Vàng Anh thì hôm sau lại đăng mấy bài mắng mỏ chương trình trên VTV về Vàng Anh và cảnh báo suy đồi đạo đức…Chất lượng các bài viết cũng thế, có bài hay, có bài như rác thải (nhưng người Việt được cái cũng yêu rác, gần đây cũng nhập về vô khối rác từ nước ngoài). Vai trò lập pháp của chính phủ? Bài này của Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng chính phủ cần đảm nhiệm công việc soạn thảo luật còn Quốc hội thì chỉ thẩm định luật thôi. Nhưng như thế thì làm sao có thể coi Quốc hội là cơ quan lập pháp được nhỉ? Các lập luận của ông Dũng có nhiều điểm không chặt chẽ lắm (nhất là ở luận điểm đại biểu Quốc hội là đại diện cho dân nên không nên soạn luật!) nhưng thôi, có vặn lại cũng chẳng để làm gì. Có điều không thấy ông Dũng nêu kinh nghiệm các nước khác xem ở nước ngoài thì có những nơi nào Chính phủ đảm nhiệm vai trò soạn luật và nơi nào thì vai trò đó là của Quốc hội. Ở Việt Nam, các văn bản dưới luật đều do Chính phủ soạn thảo và các văn bản này chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống kinh tế-xã hội. Nếu các luật cũng do Chính phủ soạn tiếp nữa thì có gì đảm bảo được rằng Quốc hội không gì khác ngoài Quốc hội gật? Vai trò đại diện cho nhân dân rốt cục chỉ dừng lại ở việc một năm đôi ba bận vặn vẹo mấy ông bộ trưởng dăm câu ba điều thôi sao? Mà nếu thế thì cũng nên sửa, không gọi Quốc hội là cơ quan lập pháp mà phải gọi Quốc hội là cơ quan thẩm định pháp thôi. Có thể vào thời điểm hiện nay và với cơ cấu Quốc hội như hiện nay thì khả năng lập pháp của Quốc hội còn yếu, nhưng cần thấy đó là một hướng đi phù hợp, tránh việc để toàn quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều rơi vào tay một nhánh chính quyền duy nhất là Chính phủ (hiện nay lãnh đạo các cơ quan tư pháp cũng đều là thành viên của Chính phủ tức là cũng ở dưới quyền hành pháp). Tớ nghĩ Quốc hội nên gia tăng số đại biểu chuyên trách và tăng cường vai trò của các tiểu ban trực thuộc Quốc hội như các cơ quan soạn thảo luật. Tất nhiên vai trò soạn thảo luật này có thể có sự tham gia của các nhân sự trực thuộc Chính phủ (trong các ban soạn thảo luật của Quốc hội) nhưng Quốc hội vẫn cần nắm vai trò đầu mối và chịu trách nhiệm.
Bà i của Hà Văn Thùy, Ä‘á»c trên blog bạn grass. Bà i gốc ở đây. Bà i nà y có khá nhiá»u vấn Ä‘á» vá»›i các láºp luáºn gây nhầm lẫn. Tác giả khẳng định tiếng Việt là chủ thể tạo ra ngôn ngữ Hán. Cần hiểu tiếng Việt ở đây là tiếng Việt cổ. Nhiá»u nháºn định trong bà i của ông Thùy không nêu rõ nguồn hoặc dá»±a trên các nguồn có Ä‘á»™ tin cáºy thấp, và đa số chỉ là võ Ä‘oán. Và dụ ông nháºn định vá» nguồn gốc của dân tá»™c Việt †Những thà nh tá»±u má»›i nhất và đáng tin cáºy của công nghệ gene xác nháºn rằng, ngÆ°á»i hiện đại Homo sapiens từ Trung Äông đã theo con Ä‘Æ°á»ng phÆ°Æ¡ng nam tá»›i Việt Nam và o khoảng 60-70.000 năm trÆ°á»›c. Nghỉ lại đây trong vòng 10.000 năm, hai đại chủng Australoid và Mongoloid hoà huyết tạo ra dân cÆ° Äông Nam Ã, là các chủng Indonesien, Melanesia, Vedoid, Negritoid. Khoảng 40.000 năm trÆ°á»›c, ngÆ°á»i từ Äông Nam à đi lên khai phá đất Trung Hoa (2). Cho đến thiên niên ká»· thứ IV TCN, ngÆ°á»i Äông Nam à Bách Việt có nhân số khoảng 54% nhân loại, chiếm lÄ©nh toà n vùng duyên hải Äông à và xây dá»±ng ná»n văn minh lúa nÆ°á»›c tiến bá»™ nhất thế giá»›i. (3) “
Link nguồn (3) là không đáng tin cáºy. Link (2) tá»› thấy ở đây Nếu Ä‘á»c link nà y thì thấy nhóm tác giả Ä‘Æ°a ra các kết luáºn sau: - NgÆ°á»i Äông à có xuất phát từ ngÆ°á»i hiện đại ở châu Phi (theo tá»› hiểu tức là nhóm homosapien di cÆ° từ khoảng 50-60.000 năm trÆ°á»›c chứ không phải là con cháu của ngÆ°á»i Asiatic gồm hóa thạch ngÆ°á»i vượn Bắc Kinh) - NgÆ°á»i Nam Trung Quốc có thể là con cháu của ngÆ°á»i Äông Nam à (cÆ° trú ở Äông DÆ°Æ¡ng và Thái Lan hiện nay). Rất có thể má»™t bá»™ pháºn ngÆ°á»i Bắc Trung Quốc cÅ©ng là con cháu nhóm ngÆ°á»i di cÆ° từ Äông Nam Ã. Trong bà i không thấy tác giả nêu ra các số năm cụ thể nhÆ° bà i của ông Thùy. Ở Ä‘oạn dÆ°á»›i ông Thùy đánh đồng gá»i tất cả các sắc dân Äông Nam à sinh sống ở Äông Nam à và ở nam Trung Quốc là Bách Việt hay Việt. Và dụ trong Ä‘oạn nà y “Khoảng 2600 năm TCN, những bá»™ lạc Mongoloid từ Tây Bắc Trung Quốc trà n qua Hoà ng Hà xâm chiếm đất Ä‘ai của ngÆ°á»i Bách Việt. Má»™t bá»™ pháºn Bách Việt bị dồn xuống phÃa nam sông DÆ°Æ¡ng Tá». Sau đó do bị lấn chiếm tiếp, đã trở lại Việt Nam và Äông Nam Ã, láºp nên nhà nÆ°á»›c Văn Lang và các nÆ°á»›c trong khu vá»±c: Là o, Thái, Campuchea, Mianma, Mã Lai, Indonesia…â€
Tên Bách Việt chỉ được ngÆ°á»i Trung Quốc sá» dụng trong thá»i Chiến Quốc (khoảng thế ká»· 6-3 TCN) để chỉ táºp hợp các bá»™ lạc- quốc gia cÆ° trú ở phÃa Nam sông DÆ°Æ¡ng Tá». Ông Thùy sá» dụng cái tên được dùng và o giai Ä‘oạn sau để chỉ tất cả các cÆ° dân Austro-Asiatic nhÆ° thế thì không thá»a đáng. Vá»›i cách gá»i nà y của ông Thùy thì tất cả cÆ° dân Äông Nam à nhÆ° ngÆ°á»i Thái Lan, ngÆ°á»i Indonesia, ngÆ°á»i Malaysia cho tá»›i ngÆ°á»i Hmong, Tà y, Dao, Nùng Ä‘á»u là ngÆ°á»i Việt hết. CÅ©ng cần nói là từ Bách Việt chỉ là má»™t từ phiếm chỉ (= má»™t đống bá»™ lạc Việt) và từ Việt cÅ©ng tÆ°Æ¡ng tá»± các từ Hồ, Di, Äịch mà ngÆ°á»i Trung Quốc gá»i để phân biệt dân “man di†vá»›i há» (TÆ°Æ¡ng tá»±, ngÆ°á»i La Mã xÆ°a gá»i những ngÆ°á»i sinh sống ở Anh là Celt mà chẳng cần biết ngÆ°á»i Celt có gì giống nhau không.) Cái tên chung đó không có nghÄ©a là Bách Việt có sá»± thống nhất vá» mặt chủng tá»™c hay ngôn ngữ. Các dân tá»™c con cháu của Bách Việt đã nói bằng nhiá»u thứ tiếng thuá»™c các há» khác nhau: ngÆ°á»i Việt, Khmer, Mon nói tiếng Mon-Khmer thuá»™c há» Austro-Asiastic, ngÆ°á»i Thái nói tiếng Thái thuá»™c há» Tai-Kadan và ngÆ°á»i Hmong nói tiếng thuá»™c há» Hmong-Mien. Không biết ông Thùy nói tiếng Việt là chủ thể của tiếng Hán là muốn nhắc tá»›i tiếng Việt nà o trong các thứ tiếng “Việt†cổ kia? Ở Ä‘oạn dÆ°á»›i, ông Thùy cÅ©ng hoà n toà n tá»± luáºn trong việc phong cho ngÆ°á»i Lạc Việt là lãnh đạo cá»™ng đồng Bách Việt khi viết “Là tá»™c ngÆ°á»i giữ vị trà lãnh đạo cá»™ng đồng Bách Việt nông nghiệp vá» xã há»™i và ngôn ngữ, ngÆ°á»i Lạc Việt có vốn ngôn ngữ phong phú vượt trá»™i so vá»›i ngÆ°á»i thiểu số Hán Mông Cổâ€. Ngay cả tá»›i thá»i Hán, ngÆ°á»i Bách Việt vẫn còn rất nhiá»u vÆ°Æ¡ng quốc Ä‘á»™c láºp, nổi báºt trong số đó là Nam Việt, Mân Việt, Äông Âu, Tây Âu…chứ không có chuyện ngÆ°á»i Lạc Việt lãnh đạo cá»™ng đồng Bách Việt trong khi Bách Việt sinh sống trên má»™t địa bà n rá»™ng lá»›n nhÆ° váºy - chỉ trừ trong huyá»n thoại Lạc Long Quân thì má»›i có chuyện Lạc Long Quân là m vua cả xứ XÃch Quá»·, kéo dà i từ hồ Äá»™ng Äình cho tá»›i tỉnh Thanh Hóa. Nếu ông Thùy chứng minh được là có má»™t ông Lạc Long Quân tháºt là m vua nÆ°á»›c XÃch Quá»· tháºt thì thôi, chẳng cần phải sá» dụng bằng chứng genes vá»›i Kinh Thi, Kinh Dịch ra là m gì nữa. Thêm nữa, sá»± tiếp xúc sá»›m nhất giữa ngÆ°á»i Lạc Việt vá»›i ngÆ°á»i Hán chỉ có thể xảy ra và o thá»i Tần, tức là sau thá»i Khổng Tá» biên soạn, san định Thi, ThÆ°, Dịch mà ông Thùy lấy là m và dụ cho sá»± ảnh hưởng của tiếng Việt tá»›i tiếng Hán chừng hÆ¡n 400 năm. Tất nhiên, ông Thùy cÅ©ng có thể kể chuyện sứ giả Việt ThÆ°á»ng dâng chim trÄ© thá»i Chu và cứ giả thiết là Việt ThÆ°á»ng chÃnh là Văn Lang thì cÅ©ng khó có chuyện ông sứ giả dâng chim trÄ©, không biết nói tiếng Tà u ấy lại có ảnh hưởng sâu rá»™ng tá»›i ngôn ngữ Hán nhÆ° thế. Tiếp đó, ông Thùy Ä‘Æ°a ra má»™t số và dụ trong văn tịch cổ chữ Hán có dùng cấu trúc ngữ pháp tÆ°Æ¡ng tá»± tiếng Việt (chÃnh trÆ°á»›c phụ sau- và dụ nói Thần Nông, chứ không phải Nông Thần, Nữ Oa chứ không phải Oa Nữ). Từ các và dụ nà y ông kết luáºn chữ Hán mượn từ chữ Việt cổ. Tôi không biết chữ Hán nên không dám bà n. NhÆ°ng tôi nghÄ© trong quá trình giao thoa thì các ngôn ngữ vẫn có sá»± cá» sát, vay mượn của nhau, thế thì việc tiếng Hán (thuá»™c há» Hán- Tạng) mượn má»™t số từ ngữ từ tiếng của các ngôn ngữ khác cÅ©ng không có gì là lạ. Chỉ có Ä‘iá»u đừng gá»i đó là tiếng Việt và coi đó là di sản của ngÆ°á»i Lạc Việt. Ở Trung Quốc hiện nay ngoà i tiếng Quan thoại còn có tiếng Ngô, tiếng Quảng, tiếng tiếng Tiá»u được cho là di sản của ngÆ°á»i Bách Việt khi xÆ°a (bao gồm các vÆ°Æ¡ng quốc Ngô, Việt và các nÆ°á»›c khác). Các thứ tiếng nà y tuy hiện nay được xếp và o nhóm Hán- Tạng nhÆ°ng có rẠ¥t nhiá»u khác biệt so vá»›i tiếng Quan Thoại và được cho là xuất phát từ tiếng bản xứ các vùng nà y (địa bà n các quốc gia Ngô, Nam Việt, Mân Việt thá»i cổ đại). Vá»›i tiếng Quảng (Cantonese), ngÆ°á»i Trung Quốc còn gá»i là tiếng Việt do coi đây là tiếng của nÆ°á»›c Nam Việt khi xÆ°a. Nếu ngÆ°á»i Hán có mượn thì là mượn của các thứ tiếng nguyên thủy tiá»n thân của các ngôn ngữ nà y, chứ không phải là của tiếng Việt. Và ngược lại, các ngôn ngữ đó cÅ©ng vay mượn lại chữ Hán và trở thà nh tiếng Ngô, Quảng, Tiá»u hiện đại (chÃnh vì sá»± vay mượn đó mà các ngôn ngữ nà y giỠđây được xếp và o nhóm Hán-Tạng trong khi tiếng Việt Nam vẫn ở nhóm Mon-Khmer). Việc ngÆ°á»i Hán thá»i cổ đại mượn phần nà o tiếng hay cả huyá»n thoại của các dân tá»™c phÆ°Æ¡ng Nam (Sở, Ngô, Việt…) trong quá trình giao thoa văn hóa là hoà n toà n có thể. Nhất là trong lÄ©nh vá»±c huyá»n thoại, các huyá»n thoại nhÆ° Thần Nông hay Nữ Oa đúng là dá»… mang dấu ấn của ngÆ°á»i phÆ°Æ¡ng Nam trồng lúa nÆ°á»›c và chịu ảnh hưởng nhiá»u của mẫu hệ hÆ¡n là ngÆ°á»i Hán-Tạng phÆ°Æ¡ng Bắc du mục và theo chế Ä‘á»™ phụ hệ triệt để. NhÆ°ng không vì thế mà đánh đồng rằng đó là tiếng Việt, vá»›i má»™t sá»± ngầm hiểu (sai lầm) rằng các dân tá»™c Bách Việt là má»™t thể thống nhất, dùng chung má»™t thứ tiếng và có Ä‘á»i sống cá»™ng đồng chung. Vá»›i cách láºp luáºn của ông Thùy thì chúng ta hoà n toà n có thể thay câu “Tiếng Việt - chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán†bằng câu “Tiếng Indonesia- chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán†hay “Tiếng Khmer-- chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán†mà chẳng há» hấn gì. PS: Lại nói vá» chủ nghÄ©a sôvanh văn hóa. Có lần tá»› thá» search vá» dân tá»™c Chăm, thấy có link trang web của má»™t bạn ngÆ°á»i Chăm Ä‘ang là m nghiên cứu sinh ở Úc. Trong link đó, bạn ấy viết vá» lịch sá» ngÆ°á»i Chăm và đặt nghi vấn vá» má»™t tá»™c ngÆ°á»i có tên là Cham people ở …Albania là có phải là ngÆ°á»i Chăm hay không. Quả là má»™t sá»± ngây thÆ¡ hay duy ý chà quá mức khi mà chỉ cần bằng và i Ä‘á»™ng tác google, bạn đó lẽ ra có thể xác định được ngay rằng cái tên Cham cho tá»™c thiểu số ở Albania đó chỉ là má»™t sá»± trùng hợp tình cá» và không có bất cứ liên hệ nà o giữa ngÆ°á»i Cham ở Albania và ngÆ°á»i Chăm ở Việt Nam, Campuchia cả. Xem ra trong trÆ°á»ng hợp nà y thì trà tưởng tượng của bạn NCS ngÆ°á»i Chăm đó còn bay cao, bay xa hÆ¡n ông Hà Văn Thùy và nhiá»u ngÆ°á»i cùng chà hÆ°á»›ng.
1. Bài này của bạn Felix về một bộ phim tài liệu của Trung Quốc về một cuộc bầu cử lớp trưởng trong một trường tiểu học. Nhớ hồi xưa xem Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên cũng có chuyện trẻ em tranh cử lớp trưởng. Thực hành dân chủ 2. Trên Vnthuquan đã có bản dịch cuốn Điệp viên hoàn hảo rồi, nhanh thật! Nhưng bản dịch này có vẻ mắc nhiều lỗi như bác Nghe chửa chỉ ra trên blog.
3. “Dân chủ”- Không có nghĩa là mọi thứ đều được phép làm! Sao mình dị ứng với cái từ “cộng đồng blog” hiện nay rất hay được nhắc tới trên báo chí thế? Tại sao lại cứ phải là “cộng đồng”? Cách gọi đó tạo ra ấn tượng như thể blog là một thứ cộng đồng, có ý chí, nguyện vọng chung. Tại sao không gọi cộng đồng website Việt Nam, cộng đồng email Việt, cộng đồng Internet Việt, cộng đồng báo mạng Việt mà lại cứ “cộng đồng blog”? Có phải đó là một cách tư duy theo truyền thống làng xã? Trong bài này tác giả viết “Australia có phố Kingcross ở Sydney và Mỹ có phố 42 ở New York ( tất nhiên khu phố 42 bây giờ đã khác xưa ). Trên những con phố này là một thế giới làm không ít người mới đến sợ hãi. Ai đã đến hai con phố nói trên sẽ thấy ở đó là những cửa hiệu bán tạp chí, băng đĩa và dụng cụ tình dục, những khu múa thóat y, những cô gái bán dâm, tụ điểm mua bán ma tuý, cửa hàng hoa tươi, cửa hàng bán quần áo và đồ lưu niệm, các cửa hàng sách, các nghệ sĩ không chuyên chơi nhạc, các hoạ sĩ đứng vẽ, các linh mục giảng kinh, các thành viên của những đảng phái khác nhau phát tờ rơi tuyên truyền cho một chiến dịch nào đó…Nghĩa là trong hai khu phố này có tất cả những gì của một thế giới thu nhỏ.” Tớ không biết gì về phố 42, nhưng ở Mỹ, mại dâm và ma túy đều là phạm pháp và duy nhất chỉ có Las Vegas là cho phép một cách hạn chế hoạt động mại dâm có quản lý. Hơn nữa, ví dụ này của tác giả để so sánh với blog là một sự khập khiễng. Blog không phải là chỗ để “xả” và đứng ngoài pháp luật như tác giả ngầm so sánh. Một điểm nữa mà tớ để ý thấy là hầu hết các bài báo viết về blog đều đứng trên lập trường của những người muốn quản lý blog. Những câu hỏi mà các báo đặt ra như Quản lý blog- nên hay không hay Quản lý blog như thế nào đều là các câu hỏi mà chính quyền phải trả lời. Việc này thể hiện một tư duy ngầm là báo chí là tiếng nói của chính quyền, hay báo chí đặt ra các vấn đề để chính quyền giải quyết, tức là rất authority-oriented. Nhận xét thêm là bài báo này trên Vietimes rất lộn xộn, giữa tiêu đề và nội dung chẳng ăn nhập gì với nhau.
Bài này trong phim Fallen Angels (người khác hát) Yazoo Only You Looking from a window above is like a story of love can you hear me? Came back only yesterday we're moving father away want you near me? All I needed was the love you gave all I needed for another day And all I ever knew - only you. Sometimes when I think of her name when it's only a game and I need you Listen to the words that you say it's getting harder to stay when I see you. All I needed was the love you gave all I needed for another day All I needed was the love you gave all I needed for another day This is gonna take a long time and I wonder what's mine can you take no more Wonder if you'll understand It's just the touch of your hand behind the closed door. All I needed was the love you gave all I needed for another day yfla.wrap("This multimedia content requires Flash version 9 and above.", "Upgrade Now.", "http:\/\/www.adobe.com\/shockwave\/download\/download.cgi?P1_Prod_Version=ShockwaveFlash", "");To view this multimedia content, please enable Javascript.
Lâu lắm mới lại xem phim, dạo này khó cảm thấy đủ kiên nhẫn để xem liên tục hết một bộ phim. Xem Fallen Angels của Vương Gia Vệ, rất thích nhạc và không khí trong phim. Phim này có thể coi là phần kế của Chungking Express. Nhưng Chungking Express nhẹ nhàng hơn, còn phim này buồn và khi xem có cảm giác mất mát. Như vậy là cũng đã xem gần hết phim của ông này, chỉ còn cái Happy Together (về gay nên không hứng xem lắm) và phim mới ra My Bluberry Nights. Xem Ratatouille, không thấy thực sự thích như nhiều người, mặc dù đúng là hình ảnh đẹp và nội dung sáng tạo. Nhưng mình vốn ghét và sợ chuột nên vẫn cảm thấy hơi kinh kinh khi xem cả đàn chuột lổm ngổm trong hang hay trong bếp. Nội dung thì vẫn quanh quanh giống như bài hát của Backstreet Boys: I don’t care who you are, what you do, where you’re from, as long as...you can cook. Xem phim này tự nhiên lại nhớ tới ông già James Watson từng được giải Nobel về công trình phát hiện ra cấu trúc vòng xoắn của DNA, mấy hôm trước phát biểu là bi quan về tương lai châu Phi vì các kiểm tra trí tuệ đều cho thấy họ khác người da trắng. Ông này cũng từng có các phát biểu bạt mạng không kém trong quá khứ như cho là phụ nữ có quyền phá thai nếu tìm thấy là thai nhi có mang gene của người đồng tính, hay cho là người da đen và da sẫm màu thì có nhu cầu tình dục mạnh mẽ hơn người da trắng. Ông ta cũng có vẻ là người theo thuyết Darwin cực đoan khi cho rằng genes quyết định tất, ví dụ cho rằng sự ngốc nghếch cũng là do genes. Tất nhiên là với những phát biểu này thì ông ta bị phê phán mạnh mẽ. Nhưng chắc rằng trong số những người phê phán ông ta như thế, không ít người cũng có ý nghĩ tương tự. Nhà nhân chủng học Jared Diamond từng nhận xét là đa số người phương Tây tuy không nói ra nhưng đều ngầm cho rằng họ thông minh hơn các sắc tộc khác. Chỉ có điều là sau khi các học thuyết giả-khoa học cho rằng người da trắng và cụ thể nữa là người Aryan ưu việt hơn các dân tộc khác đã được sử dụng làm cơ sở cho chủ nghĩa quốc xã thì giờ đây những phát biểu như của James Watson đều bị coi là phân biệt chủng tộc. Cũng nói về IQ có một công trình của một nhóm tác giả Mỹ về IQ của các sắc tộc, được xuất bản khoảng 20 năm trước trong một cuốn sách dày gần 1000 trang có tên là The Bell Curve. Theo The Bell Curve, chỉ số IQ được đo lường của các sắc dân ở Mỹ theo thứ tự từ cao xuống thấp là người gốc Á, người da trắng Caucasian, người gốc Hispanic và cuối cùng là người da đen. Cũng chú ý là thứ tự này tương tự như kết quả thi SAT của học sinh cuối cấp 3 ở Mỹ, và cũng tương tự như thang bậc thu nhập trung bình của các sắc dân ở Mỹ. Nghiên cứu này cũng bị nhiều nhà nghiên cứu cho là giả khoa học. Nổi tiếng nhất trong số những người phê bình The Bell Curve là nhà cổ sinh học Stephen Jay Gould- ông này đã viết hẳn một cuốn sách (được giải thưởng Pulitzer). Nhiều nghiên cứu đã bác bỏ kết quả của nhóm The Bell Curve, chẳng hạn như có nghiên cứu cho thấy khoảng cách giữa IQ của người da đen và da trắng đã thu hẹp rất lớn trong thế kỷ 20 và không còn khác nhau nữa, sau khi đã loại trừ các yếu tố môi trường xã hội. Hoặc có nhà bình luận nhận định rằng nếu như ngày nay, người Do Thái đạt được kết quả rất cao trong các test về độ thông minh thì hồi đầu thế kỷ 20, khi họ mới sang Mỹ, các kết quả của họ lại thấp hơn đáng kể so với người Mỹ bản xứ. Cũng về IQ còn có một cuốn sách của hai giáo sư về tâm lý học và chính trị học, tìm tương quan giữa IQ và các quốc gia. Các kết quả cũng bị nhiều người phê phán là thiếu vững chắc về mặt khoa học. Theo nghiên cứu này thì dẫn đầu IQ là 4 lãnh thổ Đông Á: Hongkong, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Nước Mỹ chỉ đứng thứ 23 trong 81 nước (Anh thứ 15 và Pháp 21). Trong 16 nước cuối bảng thì 15 nước thuộc châu Phi. Tuy nhiên cần chú ý là IQ không chỉ phụ thuộc vào genes mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố văn hóa- tâm lý-xã hội khác, kể cả động lực của người được điều tra. Người điều tra cũng sẽ dễ tìm cách khiến mình phù hợp vào cái stereotype về họ hơn. Như thế, một người Do Thái hay một người Á Đông có thể sẽ nỗ lực khi làm các test này hơn một người da đen. Với một người da đen thì việc thành công trên sân bóng rổ hay football sẽ có nhiều ý nghĩa với họ và đạt được sự ghi nhận của cộng đồng họ nhiều hơn là thành công trong lớp học. Có một thí nghiệm nho nhỏ của một cô giáo tiểu học ở một trường tiểu học toàn da trắng thời kỳ phong trào dân quyền những năm 60 ở bang Indiana, Mỹ như thế này: tại lớp học, cô giáo chia học sinh thành hai nhóm, nhóm mắt xanh và nhóm mắt nâu. Cô giáo bảo với học sinh là những người mắt xanh có khả năng trí tuệ cao hơn và dành những ưu tiên cho nhóm này. Kết quả là nhóm mắt xanh trở thành nhóm áp đảo, và các trẻ em mắt xanh có nhiều hành động bắt nạt các bạn mắt nâu. Đồng thời kết quả học và khả năng nhận thức của nhóm mắt xanh cũng khá hơn so với nhóm mắt nâu. Sau một thời gian ngắn, cô giáo lại đổi vị trí hai nhóm này bằng cách nói ngược lại là trẻ em mắt nâu mới thực sự là ưu việt hơn trẻ mắt xanh. Và vai trò hai nhóm lại đổi ngược, nhóm mắt nâu trở thành nhóm được ưu tiên, áp chế ngược lại, bắt nạt nhóm mắt xanh và đạt được các kết quả học tập tốt hơn nhóm mắt xanh. Cũng cần nhớ là màu mắt từng được coi là một cơ sở cho chính sách chủng tộc của Đức quốc xã: trong các trại tập trung, những người có mắt nâu thường bị đối xử nghiệt ngã và dễ bị giết hơn người mắt xanh. Đang đọc cuốn Lucifer’s Effect của Phil Zimbardo về thí nghiệm nhà tù Stanford do Zimbardo tiến hành. Thí nghiệm này rất thú vị (nhưng cũng rất gần với khả năng phi đạo đức trong thí nghiệm) về sự tha hóa của con người trong điều kiện nhà tù. Một cậu sinh viên 18 tuổi xuất thân trong một gia đình trí thức trở thành một thứ hung thần trong nhà tù thí nghiệm với biệt danh “John Wayne”. Nhưng trong số tù nhân cũng có những người vẫn giữ được phẩm chất của mình khi bị hạ nhục với cách ứng phó theo tinh thần Ghandi. Thí nghiệm này có tính hiện thực rất cao, nhưng cũng phải nói là nó có nhiều hạn chế, do khả năng can thiệp vào hướng kết quả của người làm thí nghiệm (vai trò của Zimbardo không phải là trung tính, khách quan khi ông vừa là người quan sát vừa là “Chúa ngục”. Bản thân ông cũng trải qua quá trình biến đổi tâm lý và tính cách trong cái môi trường nhà tù đó). Những hạn chế này có lẽ cũng là hạn chế chung của khá nhiều thí nghiệm tâm lý xã hội, nhất là khi chúng được dùng để khẳng định một luận điểm đã được nghĩ tới từ trước. Tuy nhiên, với giả thuyết rằng đây là một nhà tù khắc nghiệt, Giám đốc nhà tù thiếu trách nhiệm và các cai tù được trông đợi là phải cứng rắn với tù nhân thì những tình huống xảy ra rất có tính hiện thực (và dự báo). Tóm lại là nhà tù thật là kinh khủng (hình như Foucalt có viết gì đó về nhà tù, để lúc nào đọc xem sao). Còn bản chất con người? Trong thí nghiệm của Zimbardo, các cai ngục và tù nhân được chọn ngẫu nhiên từ một số sinh viên. Nhưng hành vi của họ nhanh chóng được định hình bởi vai trò họ đảm nhận. Giống như Bob Dylan từng viết trong một bài hát của ông: “Sometimes I think this whole world Is one big prison yard. Some of us are prisoners The rest of us are guards.” Giữ được nhân phẩm và lòng nhân đạo trong điều kiện nhà tù (hay những cái tương tự thế), dù là ở vị trí kẻ áp bức hay người bị áp bức đều khó cả. - Blog public và nhiều người đọc có một hạn chế là khó viết được cái gì riêng tư, hay chỉ cho một ít bạn bè đọc. Blog mình càng ngày càng có dấu hiệu giống báo tường. Hay bắt chước bạn Phanxine (và bạn Lilia) thỉnh thoảng đóng blog lại?. PS: Có bài này có vẻ hay hay "Language Is a Human Instinct"
Cho một buổi chiều buồn ngủ I like Chopin Gazebo Remember that piano So delightful unusual That classic sensation Sentimental confusion
Used to say I like Chopin Love me now and again
Rainy days never say goodbye To desire when we are together Rainy days growing in your eyes Tell me where's my way
Imagine your face In a sunshine reflection A vision of blue skies Forever distractions Used to say I like Chopin Love me now and again
Rainy days never say goodbye To desire when we are together Rainy days growing in your eyes Tell me where's my way yfla.wrap("This multimedia content requires Flash version 9 and above.", "Upgrade Now.", "http:\/\/www.adobe.com\/shockwave\/download\/download.cgi?P1_Prod_Version=ShockwaveFlash", " | Get this widget | | | Track details | | | \t\teSnips Social DNA ");To view this multimedia content, please enable Javascript.
Bài phỏng vấn này của ông Vương Trí Nhàn hay. Ông Vương Trí Nhàn vẫn luôn sắc sảo, thẳng thắn và rành mạch trong tư duy. Nói chung tớ đồng ý với hầu hết những gì ông nói. Trong một post về vụ Vàng Anh trên blog bạn Paris by 9, một bạn phóng viên của báo Tuổi trẻ có nói rằng khác với phương Tây, nơi báo chí thường duy lý, báo chí Việt Nam cần phải duy tình. Tớ phản đối quan điểm đó và cho rằng báo chí Việt Nam về cơ bản chả duy gì cả (và có một số thì duy những cái không trong sáng lắm), nhưng cái báo chí Việt Nam rất thiếu, đó là một sự duy lý lành mạnh, thực chất cũng không có gì khác ngoài việc đó là một thái độ làm việc chuyên nghiệp, dựa trên lý trí, và lấy khách thể làm trung tâm. Theo ông Nhàn, cái thái độ của người Việt được gọi là “duy tình” ấy chẳng qua chỉ thể hiện sự bồng bột và thói quen tư duy bằng xúc cảm nhất thời. Trích một đoạn ông Nhàn nói về sự kém duy lý và kém duy ý chí của người Việt “Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta. Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, nhất là trong xã hội hiện đại.” Nhìn vào vụ Vàng Anh và cách ứng xử từ báo chí cho tới xã hội, chúng ta thấy rất rõ vấn đề này trong cách tư duy của người Việt khi họ để xúc cảm lấn át quá nhiều tới tư duy. Trong những bài báo hỷ nộ ái ố của các tờ báo về vụ này mà tớ đọc, chỉ thấy duy nhất có bài báo của Huy Đức và Trần Lệ Thùy là vượt ra được những xúc cảm dù là yêu hay ghét, bênh hay chống, để bình luận với một khoảng cách cần thiết như là về một hiện tượng trong đời sống văn hóa. Và không chỉ trong báo chí, nếu đọc trên các blog chúng ta cũng sẽ gặp rất nhiều phán xét hay tranh luận về đạo đức. Một đoạn khác ông Nhàn nói về tính cách của người Việt: “Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.” Ông Nhàn cũng nói việc việc Việt Nam vẫn tự hào là hiếu học, thông minh, có sức chịu đựng… hoàn toàn là một sự tự ve vuốt bản thân. Nói chung những nhận định này của ông Nhàn cũng không hẳn là mới, người ta vẫn nhắc tới chúng theo cách này hay cách khác (trong quán bia hay trên các forum chẳng hạn) nhưng phát biểu của ông Nhàn vẫn rất đáng chú ý vì đó là phát biểu của một nhà nghiên cứu văn hóa sắc sảo và được đăng tải một cách chính thống. Có một điểm có vẻ mới là nhận định của ông “Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình hơn mà lại buông thả hơn.”. Tuy nhiên ông chưa khai triển rõ ràng ý này của ông nên cũng không rõ ý ông lắm. Để chờ phần sau xem ông Nhàn nói gì thêm. Một tin không hoàn toàn liên quan đưa trên SGTT: Theo nghiên cứu của Research International về sự tập trung của thanh thiếu niên thì Việt Nam xếp cuối bảng trong 8 nước châu Á về độ tập trung trong công việc và học hành. Chỉ có 8% là tập trung trong giờ học và 28% là tập trung được trong công việc hàng ngày. Bên cạnh sự nhàm chán và thiếu sáng tạo của chương trình giáo dục ở Việt Nam thì có lẽ còn một nguyên nhân nằm ở tính cách con người Việt, chúng ta dễ xuề xòa và không thực sự cố gắng trong mọi việc. Sự thiếu tập trung này khi đi học ở nước ngoài hẳn nhiều người sẽ thấy. Như tớ đi học cảm thấy mình rất khó tập trung trong giờ học trong khi khả năng tập trung của các bạn nước ngoài có vẻ tốt hơn hẳn. “Kết quả đo lường “Chỉ số tập trung Wrigley” do Research International vừa công bố, được thực hiện trên 3.048 người từ 15- 22 tuổi ở 8 nước châu Á với bảng câu hỏi dài gần 15 phút đã cho thấy: chỉ 28% trong hơn 300 người được phỏng vấn ở Việt Nam có thể tập trung hoàn toàn trong những hoạt động hàng ngày, 72% còn lại cho biết họ cảm thấy khó khăn khi phải tập trung vào các việc như học hành và ngay cả trong giao tiếp… Công trình nghiên cứu này cũng cho thấy rằng đối với thanh thiếu niên Việt Nam, chỉ 8% cảm thấy không bị xao lãng trong giờ học. Đây là tỷ lệ thấp nhất ở các nước châu Á. “
Äá»c bà i nà y buồn cÆ°á»i quá. Nhiá»u quan chức Việt Nam công nháºn có khả năng hà i hÆ°á»›c cao dã man. Mà hình nhÆ° chÃnh Radio Free Asia cÅ©ng bị tÆ°á»ng lá»a ở Việt Nam. Ông Cục trưởng Lượng cho rằng ở Việt Nam “có thể tiếp cáºn thông tin toà n thế giá»›i, không có má»™t sá»± ngăn cản nà oâ€. NhÆ°ng khi phóng viên há»i là ngÆ°á»i dân ở Việt Nam không thể tiếp cáºn được các trang web vá» dân chủ và nhân quyá»n thì ông Lượng bảo là chÃnh quyá»n không ai ngăn cấm mà do “ngÆ°á»i dân có trình Ä‘á»™ internet không tốtâ€!. Tóm lại là do nhân dân trình Ä‘á»™ kém, không biết cách vượt tÆ°á»ng lá»a thôi chứ có cấm Ä‘oán gì đâu. Äể minh chứng cho láºp luáºn lá»—i là tại nhân dân dốt, ông Lượng bảo ông vẫn và o Ä‘á»c được RFA có sao đâu. Ông Lượng cÅ©ng cho là “ở Việt Nam thì ngÆ°á»i dân rất thoả mãn vá» những thông tin mà hiện nay há» nháºn được†và “công chúng Việt Nam thì thấy báo chà hiện nay ở Việt Nam rất là tá»± do. NgÆ°á»i ta có tiếp cáºn má»i nguồn thông tin cả trong nÆ°á»›c và quốc tếâ€. Không biết ông nghÄ© gì vá» những biện pháp quản lý báo chà và sắp tá»›i là quản lý blog do chÃnh bá»™ ông thá»±c hiện? Khi được há»i vá» việc tổ chức Phóng viên không biên giá»›i xếp tá»± do báo chà ở Việt Nam đứng thứ 162 trên 169 quốc gia thì ông Lượng bảo là tổ chức nà y lẽ ra nên lấy ý kiến “của đại Ä‘a số nhân dân Việt Nam để ngÆ°á»i ta đánh giá khách quan hÆ¡n†(tức là tổ chức trÆ°ng cầu dân ý?). Ông cÅ©ng khẳng định “ở Việt Nam không ai có quyá»n kiểm duyệt báo chÃ, tạp chà và tác phẩmâ€. Hóa ra ở Việt Nam không có kiểm duyệt -trong khi ở Mỹ, và dụ vẫn có kiểm duyệt gián tiếp tác phẩm Ä‘iện ảnh bằng cách phân loại rating phim- chứng tá» rõ rà ng Việt Nam còn có tá»± do báo chà và tá»± do văn hóa hÆ¡n Mỹ. Tóm lại, ý của ông Cục trưởng Cục Báo chà của Bá»™ 4T là Việt Nam có tá»± do báo chà hoà n toà n, và chẳng qua do nhân dân có trình Ä‘á»™ Internet kém tắm nên má»›i tá»± hạn chế tá»± do của mình thôi. Ngụ ý của ông hẳn là nhân dân nên nâng cao trình Ä‘á»™ Internet để có thể biết cách vượt tÆ°á»ng lá»a nhÆ° ông? Dù sao, việc má»™t quan chức quản lý báo chà ở Việt Nam chịu trả lá»i phá»ng vấn của má»™t trang web bị coi là “phản Ä‘á»™ng†và bị chặn tÆ°á»ng lá»a ở Việt Nam cÅ©ng là má»™t sá»± hÆ¡i lạ. Tất nhiên khi trả lá»i, ông Lượng cÅ©ng biết trÆ°á»›c rằng hầu hết các công dân Việt Nam, những ngÆ°á»i “có thể tiếp cáºn má»i nguồn thông tin cả trong nÆ°á»›c và quốc tế†sẽ không thể Ä‘á»c được bà i phá»ng vấn của ông ở má»™t trang web hải ngoại và bị chặn tÆ°á»ng lá»a. Copy nguyên văn bà i trả lá»i phá»ng vấn của ông Lượng (các lá»—i typo của RFA khá nhiá»u). Tá»± do Báo chà ở Việt Nam theo giải thÃch của Bá»™ Truyá»n thông-Thông tin 2007.10.19 Gia Minh, phóng viên Ä‘Ã i RFA Tổ chức Phóng viên Không Biên giá»›i RSF vừa công bố phúc trình thÆ°á»ng niên vá» tình hình tá»± do báo chà trên tòan thế giá»›i. Theo thứ tá»± xếp hạng trong bảng phúc trình vừa nêu thì Việt Nam đứng thứ 162 trên 169 quốc gia được khảo sát. Trong má»™t chÆ°Æ¡ng trình trÆ°á»›c, Äà i chúng tôi giá»›i thiệu đến quà thÃnh giả bà i phá»ng vấn ông Jep Julliard, phụ trách Phòng nghiên cứu của RFS, vá» phúc trình năm nay của tổ chức mà ông Ä‘Æ°a ra. Hôm nay, biên táºp viên Gia Minh nêu vấn Ä‘á» liên quan vá»›i ngÆ°á»i đứng đầu Cục Báo chà thuá»™c Bá»™ Truyá»n thông-Thông tin của Việt Nam là ông Hòang Hữu Lượng. TrÆ°á»›c hết ông Ä‘Æ°a ra đánh giá vá» sá»± há»™i nháºp của báo chà Việt Nam hiện nay: Ông Hoà ng Hữu Lượng: Hiện nay trên thế giá»›i có loại hình báo chà gì thì Việt Nam Ä‘ang có loại báo chà đó. Việt Nam hôm nay Ä‘ang có cả báo in, Ä‘Ã i phát thanh, Ä‘Ã i truyá»n hình, báo Ä‘iện tá» và những thông tin khác trên internet. Báo chà ở Việt Nam Ä‘ang phát triển rất nhanh. Hiện nay chúng tôi có tá»›i hÆ¡n 800 tá» báo rồi, rồi Ä‘Ã i phát thanh truyá»n hình phát triển mạnh, đặc biệt là internet thì Việt Nam má»›i hoà mạng từ năm 1997. Hiện nay thì cái tốc Ä‘á»™ phát triển của Việt Nam rất nhanh và thông tin trên mạng thì gần nhÆ° toà n dân được tiếp cáºn vá»›i toà n bá»™ thông tin của toà n thế giá»›i. Gia Minh: Äối vá»›i những chuẩn má»±c vá» báo chà quốc tế thì nhÆ° thế nà o, thÆ°a ông? Ông Hoà ng Hữu Lượng: Chuẩn má»±c báo chà quốc tế thì nÆ°á»›c nà o cÅ©ng thế thôi. Báo chà có chuẩn má»±c chung là thông tin trung thá»±c và khách quan. Báo chà Việt Nam cÅ©ng Ä‘ang là m rất đúng Ä‘iá»u đó, phản ánh má»i mặt của Ä‘á»i sống xã há»™i trong nÆ°á»›c và cả quốc tế. Sinh hoạt báo chà ở Việt Nam Gia Minh: NhÆ°ng, thÆ°a ông, vẫn có những đánh giá là ở Việt Nam nhÆ° ông nói là có đầy đủ các loại hình và ngÆ°á»i dân thì có thể tiếp cáºn các nguồn thông tin, nhÆ°ng thá»±c tế vẫn có những nguồn thông tin mà ngÆ°á»i dân không được tiếp cáºn, thÆ°a ông ạ. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi cho rằng đánh giá đấy là đánh giá không khách quan. Nếu ông ở Việt Nam thì ông thấy là có thể tiếp cáºn thông tin toà n thế giá»›i, không có má»™t sá»± ngăn cản nà o. Gia Minh: NhÆ°ng có nh ững ngÆ°á»i ở Việt Nam nói rằng có những trang web chứa những thông tin vá» những vấn Ä‘á» nhÆ° dân chủ và nhân quyá»n thì há» vẫn không thể tiếp cáºn được, thÆ°a ông Cục Trưởng. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi nghÄ© rằng là không ai ngăn cản chuyện đó cả. Bất cứ má»™t ngÆ°á»i nà o có trình Ä‘á»™ internet thì há» có thể tiếp cáºn được. Tôi nghÄ© rằng đấy là những ngÆ°á»i đó có thể do trình Ä‘á»™ internet không tốt nên không mở Ä‘Æ°á»›c các cái đó thôi. Tôi nghÄ© rằng là không có má»™t sá»± ngăn cấm nà o. Gia Minh: Chỉ má»›i trong tuần nay thôi Há»™i Phóng Viên Không Biên Giá»›i RSF có ra má»™t bản phúc trình năm 2007 đánh giá Việt Nam vá» vấn Ä‘á» tá»± do thông tin đã xếp Việt Nam hạng 162 trên 169 quốc gia được khảo sát. Khi nghe thông tin đó thì ông có ý kiến ra sao? Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi nghÄ© việc xếp đấy là việc của ngÆ°á»i ta, còn thì vá»›i công chúng Việt Nam thì hỠđánh giá khác. Công chúng Việt Nam thì thấy báo chà hiện nay ở Việt Nam rất là tá»± do. NgÆ°á»i ta có tiếp cáºn má»i nguồn thông tin cả trong nÆ°á»›c và quốc tế. Gia Minh: Khi ngưòi ta Ä‘Æ°a ra xếp hạng nhÆ° váºy thì há» cÅ©ng có cÆ¡ sở của hỠđấy chứ ạ? Nếu nhÆ° ông gặp há» thì ông có láºp luáºn nhÆ° thế nà o trÆ°á»›c cái đánh giá của há», thÆ°a ông? Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi nghÄ© rà ng là phải ở Việt Nam thì má»›i đánh giá được thông tin Việt Nam. CÅ©ng nhÆ° tôi bây giá» tôi đánh giá vá» thông tin của Mỹ thì chắc chắn là tôi không đánh giá má»™t cách xác thá»±c được. CÆ¡ bản hãy cứ đến Việt Nam và đánh giá thông tin của Việt Nam thì các bạn má»›i thấy được. Gia Minh: Äối vá»›i tổ chức Phóng Viên Không Biên Giá»›i đó thÆ°a ông, thì sau khi há» có những đánh giá nhÆ° váºy rồi thì Cục Báo Chà sẽ có má»™t lúc nà o đó ông má»i tổ chức đó đến Việt Nam không? Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi gần nhÆ° chÆ°a được tiếp xúc vá»›i tổ chức nà y nên tôi không biết cách đánh giá của há» nhÆ° thế nà o. Và tôi nghÄ© rằng là cách đánh giá của há» nên lấy ý kiến ở ngay nhân dân Việt Nam, của đại Ä‘a số nhân dân Việt Nam để ngÆ°á»i ta đánh giá khách quan hÆ¡n. Thông tin chÃnh trị, nhạy cảm? Gia Minh: Nói chuyện vá»›i ông thì tôi cÅ©ng xin giá»›i thiệu vá»›i ông rằng chúng tôi là của Äà i RFA thì đối vá»›i trang mạng của Ä‘Ã i chúng tôi rất nhiá»u ngÆ°á»i ở Việt Nam nói rằng há» không thể truy cáºp được vì bị tÆ°á»ng lá»a đó, thÆ°a ông. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Không có đâu. Tôi vẫn nói vá»›i anh rằng chắc trình Ä‘á»™ Inernet của những ngÆ°á»i truy cáºp thôi chứ còn má»i ngÆ°á»i nhÆ° tôi vẫn truy cáºp hằng ngà y rất nhiá»u mạng thông tin của thế giá»›Ã. Gia Minh: Bản thân ông có và o trang web của RFA không ạ? Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi cÅ©ng không và o thÆ°á»ng xuyên bởi có quá nhiá»u, nhÆ°ng tôi Ä‘á»c rất nhiá»u thông tin của CNN, của BBC. Tôi quan tâm đến những gì mà tôi thÆ°á»ng quan tâm thôi chứ không phải và o tất cả được. Thá»i gian không cho phép mình và o hết các trang trong ngà y. Bởi vì ngay trong báo chà Việt Nam thì chúng tôi Ä‘á»c báo chà Việt Nam cÅ©ng rất nhiá»u rồi. Bạn nghÄ© gì vá» sinh hoạt báo chà tại Việt Nam? Hãy gá»i đến Ban Việt Ngữ ý kiến của bạn. email: vietweb@rfa.org Gia Minh: Có nhiá»u ngÆ°á»i há» cÅ©ng đã đến Việt Nam rồi thÆ°a ông. Há» nói rằng những thông tin nà o mà chÃnh quyá»n cho là không nhạy cảm thì vẫn được đăng, nhÆ°ng những loại thông tin mang tÃnh nhạy cảm nhÆ° nói vá» vấn Ä‘á» chÃnh trị, nói vá» những vấn Ä‘á» ngÆ°á»i dân bất đồng ý kiến thì lại bị ngăn trở. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi cho rằng đấy là nháºn xét không chÃnh xác và có phần xuyên tạc. ThÆ°á»ng ở Việt Nam thì ngÆ°á»i dân rất thoả mãn vá» những thông tin mà hiện nay há» nháºn được. Gia Minh: Äối vá»›i các nhà báo, những ngÆ°á»i hà nh nghá» báo chà đó thÆ°a ông, thì không phải tất cả má»i thông tin há» Ä‘á»u được Ä‘Æ°a lên mặt báo. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Không ai cấm há» Ä‘iá»u đó cả. Việt Nam có luáºt rồi và há» cứ theo cái đó há» là m. Không ai ngăn cản Ä‘iá»u đó. Ở Việt Nam không ai có quyá»n kiển duyệt báo chÃ, tạp chà và tác phẩm. Gia Minh: Ông thì xác nháºn nhÆ° váºy, nhÆ°ng đối vá»›i nhiá»u ngÆ°á»i lâu nay há» vẫn thấy hiện tượng đó vẫn còn và ngÆ°á»i ta vẫn nêu ra Ä‘iá»u đó, thÆ°a ông. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Tôi cho rằng đấy là những nháºn xét thì đấy là quyá»n của má»—i ngÆ°á»i. Còn đấy là nháºn xét của cá nhân tôi. CÅ©ng nhÆ° tôi khẳng định rằng đấy của nhân dân Việt NamNam để tìm hiểu. chứ không phải. Chúng tôi cÅ©ng sẵn sà ng mở rá»™ng cá»a má»i tất cả các báo đến Việt Gia Minh: Ông có nói mở rá»™ng cá»a mà đối vá»›i chẳng hạn nhÆ° Äà i RFA chúng tôi thì đã nhiá»u lần ná»™p Ä‘Æ¡n xin phép vá» tham gia má»™t số sá»± kiện lá»›n ở Việt Nam, nhÆ°ng sau khi ná»™p Ä‘Æ¡n thì vẫn không được trả lá»i đó thÆ°a ông. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Äấy là cÅ©ng nhÆ° khi tôi, ngÆ°á»i Việt Nam xin và o Mỹ chẳng hạn thì không phải ai Mỹ cÅ©ng chấp nháºn cho ngÆ°á»i ta Ä‘i qua Mỹ. Rất nhiá»u ngÆ°á»i Việt Nam xin thị thá»±c và o Mỹ cÅ ©ng không được. Äấy là việc của cÆ¡ quan khác. Tôi hoà n toà n không biết. Gia Minh: Cảm Æ¡n ông Cục Trưởng cho cuá»™c nói chuyện vừa rồi. Ông Hoà ng Hữu Lượng: Rất cảm Æ¡n anh.
|
|
|
|
|
|